Bạn hay tôi, và
cả nhiều người khác sẽ rất hài lòng khi được nghe người khác khen mình là người
giỏi, là khôn ngoan, là thông minh. Một thời, trong đám sinh viên chúng tôi có
kiểu nhận xét những ai “vai u thịt bắp” rằng đó là loại “đầu óc ngu si tứ chi
phát triển”. Dù sao cũng phải thừa nhận rằng, bộ não thông minh là “độc quyền”
của con người. Không thể phủ nhận rằng bản thân mỗi người chúng ta đều có nhiều
giây phút “toả sáng” vì những suy tư, sáng kiến, trí tưởng tượng bay bổng và
khả năng sáng tạo không ngừng. Tuy thế, ai trong chúng ta có thể khẳng định là
mình luôn luôn đúng?. Thật vậy, chúng ta thường có những suy nghĩ, hành vi mà khi
chúng ta thực hiện, ngay lập tức, ta nhận ra rằng mình thiếu khôn ngoan; vì
rằng đôi khi mình “khôn trường kỳ” mà cũng hay “ngu đột xuất”. Và người ta luôn
mơ ước mình trở nên “người khôn ngoan” hơn. Mà thế nào là người khôn ngoan?
Sự khôn ngoan là một
quà tặng mà Thượng đế ban cho con người. Trong thế giới của loài thụ tạo, chỉ
có con người mới có khả năng khám phá, nhận định, tìm hiểu, phân tích, tổng hợp
và liên kết kinh nghiệm sống, biến tất cả thành lịch sử cuộc đời mình. Trong
giáo dục luân lý Kitô giáo, người ta nhắc đến Nhân đức Khôn ngoan. Người ta
từng gọi nhân đức này là “auriga virtutum”
– nhân đức “cầm cương”, “điều khiển” (auriga:
tiếng Latinh chỉ người đánh xe ngựa) vì nhân đức khôn ngoan chỉ ra cho các nhân
đức khác các quy tắc, điểm quy chiếu và các biện pháp theo đó mà thực hành.
Thánh Toma gọi đó là “quy tắc đúng đắn cho hành động” (S.Th II-II, 47, 2).
Theo Thánh Toma,
sự khôn ngoan không chỉ đòi hỏi kiến thức về trường hợp cá biệt, riêng lẽ, mà
còn tính đến các nguyên tắc phổ quát: “Trong thực tế, không ai có thể áp dụng
một điều này vào một điều khác mà không biết cả hai, đó là điều để áp dụng và
một điều được áp dụng. Nhưng hành động của con người luôn ứng với từng trường
hợp riêng biệt. Vì vậy, người khôn ngoan cần thiết phải biết các nguyên tắc phổ
quát của lý trí, và phải biết rõ cả từng trường hợp riêng lẻ trong các hoạt
động của họ” (S.Th II-II, 47, 3).
Nhân đức khôn
ngoan làm cho chủ thể, theo cách dễ dàng hơn, biết áp dụng vào các hành vi cụ
thể các nguyên tắc đạo đức có vai trò hướng dẫn các hành vi của con người. Họ
nói năng lịch sự và biết lựa lời. Họ cư xử chừng mực vì biết các giới hạn cần
thiết trong tương giao,… Sự khôn ngoan như thế cũng khác với xảo quyệt, ranh
ma, dè chừng, không chắc chắn, ảo tưởng (x. Hc 19, 1-25; Hc 20, 27-31). Người
khôn ngoan là người cẩn trọng trong mọi hoạt động, và trong mọi hành vi của
mình họ luôn biết thực hiện với sự kiềm chế, tiết độ.
“Ðức khôn ngoan
trực tiếp hướng dẫn phán đoán của lương tâm. Dựa theo phán đoán này, người khôn
ngoan chọn cách ứng xử của mình. Nhờ đức tính này, chúng ta áp dụng đúng đắn
các nguyên tắc luân lý vào từng trường hợp cụ thể, và không còn do dự về điều
thiện phải làm và điều ác phải tránh” (x. Giáo lý Công giáo, số 1806).
Khôn ngoan của
con người khác với “khôn ngoan của Thập giá” (hay sự khôn ngoan của Thiên Chúa)
(x. 1 Cr 17-25). Từ đây, chúng ta có thể
nói tiếp về “sự khôn ngoan của cõi lòng”.
Một người có sự
khôn ngoan của cõi lòng biết chấp nhận cách mạnh mẽ và thanh thản thực tế cuộc
sống trong những giới hạn của nó, biết mình là thụ tạo bị giới hạn giữa biên
giới của sự tồn tại mà mình không thể vượt qua, biết có những luật lệ nhất định
của cuộc sống phải được chấp nhận và được tôn trọng, có khoảng trống nhất định
trong ta không thể được lấp đầy. Và điều này không phải là do định mệnh mù
quáng, nhưng do các dữ liệu thực tế và không thể thay đổi của thực tại “làm
người”. Vâng, nhận ra những giới hạn ấy và chấp nhận chúng với sự thanh thản là
một dấu hiệu của sự khôn ngoan tuyệt vời.
Người có sự khôn
ngoan của cõi lòng nhận biết rằng sẽ thật là vô ích khi cứ mãi khóc lóc hay bám
víu vào điều nay còn mai mất; biết rằng nỗi buồn hay niềm vui là chuyện rất
thường trong đời; biết rằng cuộc sống có những ngày đầy ắp vinh quang và có lúc
im lặng vì thất bại. Một người có sự khôn ngoan của cõi lòng hiểu được sự tạm
bợ và điều vĩnh cữu giữa những gì đổi thay, ngắn ngủi; hiểu ra một sự thật là
có nhiều thứ nhất thời, chóng qua mà lại xuất hiện ở một dáng vẻ hấp dẫn, quyến
rũ chúng ta, hành hạ chúng ta và khiến chúng ta đau khổ trong những cuộc tìm
kiếm vô vọng, hay không có hồi kết thúc.
Sự khôn ngoan còn
là việc biết khám phá những điều tốt lành có trong mọi loài thụ tạo, biết
ngưỡng mộ trật tự đằng sau đó, biết khám phá “dấu vết của Thiên Chúa” trong mọi
biến cố, mà không tham vọng muốn vượt qua hết những giới hạn của loài thụ tạo.
Người có sự khôn
ngoan của cõi lòng biết thực hiện các bước đi tương ứng với đôi chân của mình,
biết suy nghĩ trước những lựa chọn của cuộc sống hàng ngày và biết quyết định
vì những lựa chọn tuyệt vời cho cuộc sống dài lâu. Họ có lối sống rất thực tế
và ít hoặc không dựa vào những ảo tưởng và, do đó, không rơi vào thất vọng cay
đắng. Họ là những người hiểu cách thoát ra khỏi sự an toàn giả tạo, biết đo
lường cách trung thực với các loại khó khăn khác nhau và biết làm thế nào để
rút tỉa kinh nghiệm từ các lỗi lầm và thất bại, từ những hiểu lầm và những lời
chỉ trích, từ thất vọng và sự khinh thường hay bị cô lập.
Người có sự khôn
ngoan của cõi lòng không ngừng nỗ lực và hy sinh để vượt qua những tình huống
bất lợi; biết huy động tất cả các nguồn lực của mình, biết đầu tư khả năng của
mình và tất cả thời gian vào hành động chính đáng; sau đó, giữa bao nhiêu âu lo
và thử thách, họ biết cách lấy lại sự bình an và niềm vui nhờ tin tưởng vào sự quan
phòng của Chúa, Đấng mang đến cho tất cả mọi người mọi thứ đúng thời đúng buổi.
Chúng ta cũng có
thể nói thêm nữa về điều ngược lại ở nơi những kẻ có trái tim ngốc nghếch (àphron- rỗng, ngốc nghếch, thiếu ý thức
chung, ngu ngốc ...). Sự ngu ngốc nơi con người được biểu hiện như không thể
phân biệt sự thật nơi những gì xuất hiện trong thực tế, lẫn lộn công lý với tội
ác, cái tốt với cái xấu, những người vô tội với tội lỗi, và rơi vào một nghịch
lý rõ ràng: họ tự xem mình là khôn ngoan và gán cái “dại dột” cho người khác;
tự thêu dệt một loạt lý luận vô nghĩa và phi lý, một suối những lời nói trống
rỗng. Tác giả của sách Châm ngôn nhận xét: “Bước chân nghiêng ngửa của người
què thế nào thì lời nói trong miệng của một kẻ ngốc cũng khập khiểng như vậy”
(x. Châm ngôn 26, 7).
Ai là người khôn
ngoan, biết rút ra nhiều kinh nghiệm, biết cân nhắc những gì đó là tốt và cái
gì là xấu (x. Giảng viên 7, 15-18), biết phân biệt đúng sai cho mỗi lựa chọn và
không rơi vào bẫy xảo quyệt; không miễn nhiễm với sự mệt mỏi của suy tư và
nghiên cứu, và do đó, họ có được những niềm vui của cuộc chinh phục. Người khôn
ngoan ôn hòa trong cách nói năng; lời mà họ thốt ra là kết quả của suy tư lâu
dài từ khối óc bén nhạy và trái tim rộng mở. Người khôn ngoan là kẻ tốt bụng
nhưng không ngây thơ, chừng mực nhưng không lạnh lùng, kiên nhẫn nhưng không lỳ
lợm.
Chắc là bạn đã có
lần nào đó nghe đọc những lời sau đây từ Kinh Thánh:
“Lạy Đức Chúa từ bi lân tuất, Chúa dùng lời Chúa mà tác thành vạn vật, dùng sự khôn ngoan của Chúa mà
cấu tạo con người, để con người làm chủ mọi loài Chúa dựng nên, và sống sao cho thánh thiện công chính mà chỉ huy cả vũ trụ này, cùng được một tâm hồn ngay
thẳng mà phân biệt phải trái. (Kn 9, 1-3)
Nếu bạn tin những
lời này, bạn sẽ hiểu đâu là Nguồn của mọi sự khôn ngoan. Tại sao ta lại không
nghĩ đến chuyện “làm một chuyến hành trình” tìm đến tận nguồn khôn ngoan ấy
nhỉ?
(Lê An Phong, SDB)
No comments:
Post a Comment