(Bài viết của Trần Hữu Quang,
Thời Báo Kinh tế Sài gòn, Thứ Sáu, 31/1/2014)
Cách đây khá lâu, chúng tôi
có dịp được nghe kể lại một câu chuyện như sau. Một cán bộ từ chiến khu trở về
Sài Gòn sau chiến tranh, khi mướn một ông thợ quét vôi lại căn nhà của mình, đã
tỏ ra khá ngạc nhiên vì sau khi quét vôi xong, ông thợ khá đứng tuổi dẫn người
cán bộ đi một vòng trong nhà và nói đại ý rằng ông hãy coi kỹ lại đi, chỗ nào
ông thấy không ưng ý thì tôi sẽ làm lại ngay. Người chủ nhà ngạc nhiên trước
thái độ tận tụy vì công việc của người thợ - một sự tận tụy hoàn toàn mang tính
chất tự giác.
Chúng tôi muốn mở đầu bằng câu chuyện có thật trên đây để luận bàn về đạo
đức nghề nghiệp. Bài viết này sẽ không đi vào những khía cạnh thực tiễn hay thời
sự của vấn đề đạo đức nghề nghiệp, mà chỉ thử nêu lên một vài ý tưởng nhằm mục
đích đi tìm coi đâu là những nền tảng của đạo đức nghề nghiệp.
Theo thiển ý chúng tôi, ý niệm về đạo đức nghề nghiệp xuất phát từ hai
nền tảng chính, tương ứng với hai vế của cụm từ này, đó là ý nghĩa của lao động
và của nghề nghiệp (bàn đến lao động xét như đây là nội hàm then chốt của bất cứ
hoạt động nghề nghiệp nào), và ý nghĩa của hành vi đạo đức.
Ý nghĩa của lao động
Có thể nói triết gia người Đức Georg W.F. Hegel là người đầu tiên đã
phân tích ý nghĩa của lao động một cách sâu sắc. Trong cuốn Hiện tượng học tinh
thần xuất bản năm 1807, ở một mục nổi tiếng đề cập tới mối quan hệ biện chứng
giữa người chủ và nô lệ, Hegel viết rằng “kinh qua lao động, ý thức mới đi đến
được với chính mình”, tức là “đạt được tự do và giải phóng” theo lời diễn giải
của Bùi Văn Nam Sơn. Sở dĩ như vậy là do “lao động kiến tạo hình thể và đào luyện
- không chỉ cho đối tượng mà cho cả người lao động”. Nhà nghiên cứu triết học
Bùi Văn Nam Sơn diễn giải tư tưởng của Hegel như sau: người lao động “mang lại
hình thể cho sự vật bằng lao động”, “biến sự vật (ví dụ: một khối gỗ) thành một
cái gì khác (ví dụ: bộ bàn ghế), tức cải biến nó “theo hình ảnh của mình”, theo
ý đồ hay kế hoạch bằng lao động, bằng sự hiện thực hóa chính khả thể của mình”.
Người lao động “tự ngoại tại hóa (hay tự đối tượng hóa, tự xuất nhượng) bằng
lao động, và có nghĩa là có thể nhận ra chính mình trong đó” (tức là trong sản
phẩm mà mình làm ra) (Bùi Văn Nam Sơn, trong Hegel, 1807).
Trong cuốn Các nguyên lý của triết học pháp quyền (1821), Hegel giải
thích thêm rằng những mối tương liên và tương thuộc giữa con người với nhau
trong lao động nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của mình, thông qua sự phân
công lao động và sự trao đổi sản phẩm, đã đưa cá nhân hạn hẹp lên bình diện phổ
quát.
Theo Trần Văn Toàn, “lao động là thứ hoạt động chân tay có ích lợi,
giúp cho người ta làm chủ được thế giới sự vật”, nó “thay đổi môi trường thành
thế giới của mình làm ra”, từ đó “lao động là bước đầu và là nền tảng cho văn
hóa”. Mặt khác, lao động không chỉ bao gồm mối quan hệ giữa con người với thiên
nhiên, mà còn giữa con người với nhau (Trần Văn Toàn, Tìm về ý nghĩa của lao động
và kỹ thuật, 2011).
Khái niệm nghề nghiệp-thiên
chức trong xã hội hiện đại
Nếu Hegel có công khai triển ý nghĩa của lao động, thì nhà xã hội học Đức
Max Weber là người đào sâu ý nghĩa của hoạt động nghề nghiệp xét như là một
thiên chức của con người. Trong cuốn Nền đạo đức Tin lành và tinh thần
của chủ nghĩa tư bản (1920), Weber đã tìm cách chứng minh rằng tư tưởng
đề cao lao động nghề nghiệp của đạo Tin lành ở châu Âu trong những thế kỷ 17-18
đã trở thành một nền tảng tinh thần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản ở châu lục này.
Khái niệm Beruf của Weber (mà chúng tôi dịch là nghề nghiệp-thiên chức)
không phải chỉ có nghĩa là nghề nghiệp (profession hay job, xét như là một hoạt
động mưu sinh), mà còn mang ý nghĩa thiên chức. Weber gắn nó với từ calling
trong tiếng Anh (đồng nghĩa với chữ Berufung [sự kêu gọi] trong tiếng Đức) và với
ý niệm phận sự (Aufgabe), và vì thế khái niệm nghề nghiệp-thiên chức luôn đi
đôi với khái niệm bổn phận (Pflicht).
Weber nhấn mạnh tầm quan trọng của tinh thần nghề nghiệp-thiên chức
trong quá trình hình thành xã hội hiện đại như sau: “Một trong các bộ phận cấu
thành của tinh thần tư bản chủ nghĩa hiện đại, và không chỉ của tinh thần này,
mà cả của chính nền văn hóa hiện đại, tức là lối sống thuần lý dựa trên ý tưởng
Beruf, đã được phát sinh từ tinh thần của nền khổ hạnh Ki-tô giáo”.
Ý nghĩa của hành vi đạo đức
theo Kant
Trong cuốn Phê phán lý tính thực hành (1788), triết gia người Đức
Immanuel Kant cho rằng để có thể nhận diện được thế nào là một hành vi đạo đức,
trước hết cần phân biệt giữa “ý thức hành động phù hợp [bề ngoài] với nghĩa vụ”
với “ý thức hành động từ nghĩa vụ”, tức là “chỉ đơn thuần vì quy luật”. Kant
cho rằng hành vi có tính luân lý là hành vi được thực hiện “bằng sự tôn kính đối
với quy luật (...) và từ lòng kính sợ đối với nghĩa vụ của mình”, chứ không phải
là hành vi chỉ có tính chất “hợp” với nghĩa vụ.
Theo Kant, “luân lý là tổng thể những quy luật ra mệnh lệnh vô điều kiện
để ta phải hành động theo chúng” (I. Kant, Hướng đến nền hòa bình vĩnh cửu,
1795, B71, dẫn lại theo Bùi Văn Nam Sơn, 2007).
Kant đưa ra ý tưởng quan trọng sau đây để minh định nền tảng của hành
vi đạo đức: “Sự tự trị của ý chí là nguyên tắc duy nhất của mọi quy luật luân
lý và của mọi nghĩa vụ phù hợp với chúng; ngược lại, sự ngoại trị của sự tự do
lựa chọn không chỉ không thể làm cơ sở cho bất kỳ bổn phận nào mà còn đối lập lại
với nguyên tắc của bổn phận và với luân lý của ý chí” (Kant, 1788).
Kant còn phân biệt giữa mệnh lệnh giả thiết (“Tôi phải làm điều này bởi
vì tôi muốn một điều khác”) với mệnh lệnh nhất quyết (“Tôi phải làm điều này
cho dù tôi không muốn một điều nào khác”), và cho rằng chỉ có mệnh lệnh nhất
quyết mới làm cho một hành vi trở thành một hành vi đạo đức thực thụ. Kant đưa
ra thí dụ sau đây cho mệnh lệnh giả thiết, tức là mệnh lệnh phụ thuộc vào một mục
đích hay động cơ bên ngoài: “Tôi không được nói dối nếu tôi muốn giữ thanh danh
của mình”. Nhưng để có được một mệnh lệnh nhất quyết thì phải nói: “Tôi không
được nói dối cho dù có làm như vậy tôi cũng không hề bị mất thanh danh” (Kant,
1785, Groundwork of the Metaphysic of Morals).
Trật tự đạo đức và trật tự
pháp lý
Trở lại với câu chuyện đạo đức nghề nghiệp. Gần đây trên nhiều diễn
đàn, rộ lên cuộc thảo luận về y đức nhân vụ một bác sĩ thẩm mỹ bị bắt vì là
nghi can làm chết một bệnh nhân rồi ném xác xuống sông Hồng (Tuổi Trẻ,
22-10-2013). Nhưng phải chăng đó là câu chuyện chỉ liên quan tới đạo đức nghề
nghiệp? Thiết tưởng ở đây cần phân biệt giữa trật tự đạo đức và trật tự pháp
lý.
Kant từng nhấn mạnh sự khác biệt giữa “tính hợp lệ” của hành động (tức
phải hành động phù hợp với nghĩa vụ) với “tính luân lý” (liên quan tới
động cơ của hành động). “Luân lý là quy luật cho con người và có chức năng của
một sự cưỡng chế từ bên trong. Khi vi phạm các quy luật luân lý, lương tâm giữ
vai trò của một quan tòa nội tâm. Ngược lại, pháp lý cưỡng chế con người từ bên
ngoài mà không nhất thiết đi kèm với một động cơ nội tâm nào cả” (Bùi Văn Nam
Sơn, 2010, Các nguyên lý của triết học pháp quyền, Hegel).
Vụ bác sĩ ném xác xuống sông trước hết cần được xem xét dưới góc độ
pháp lý, vì nó liên quan trực tiếp tới những điều khoản nhất định của bộ luật
hình sự mà vị bác sĩ này có thể đã vi phạm. Tất nhiên, mọi người có quyền nhân
cơ hội này để suy nghĩ về vấn đề y đức, nhưng câu chuyện y đức có lẽ chỉ có thể
được thảo luận thấu đáo hơn thông qua nhiều vụ việc khác nữa vốn không trực tiếp
liên quan tới khía cạnh pháp lý.
Không ai khen thưởng một người thủ quỹ vì đã không “thụt két”, bởi lẽ
việc cất giữ tiền là nhiệm vụ đương nhiên của người này, tức thuộc khía cạnh
pháp lý. Cũng tương tự như vậy, không ai tặng huy chương cho một giáo viên ngày
nào cũng đến lớp đúng giờ; người giáo viên chỉ được khen thưởng nếu tỏ ra tận tụy
với công việc và với học trò chẳng hạn, nghĩa là những hành vi thuộc về trật tự
đạo đức của nhà giáo.
Ở đây, cần phân biệt rạch ròi giữa quy chuẩn nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp. Các quy chuẩn nghề nghiệp là hệ thống các quy tắc và chuẩn mực pháp lý và kỹ thuật mà người lao động buộc phải tuân thủ và thực hiện nếu muốn theo một nghề nào đó (bộ quy chuẩn này có thể do nhà nước hoặc chủ công ty ban hành).
Ở đây, cần phân biệt rạch ròi giữa quy chuẩn nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp. Các quy chuẩn nghề nghiệp là hệ thống các quy tắc và chuẩn mực pháp lý và kỹ thuật mà người lao động buộc phải tuân thủ và thực hiện nếu muốn theo một nghề nào đó (bộ quy chuẩn này có thể do nhà nước hoặc chủ công ty ban hành).
Còn đạo đức nghề nghiệp là hệ thống các chuẩn mực quy định thái độ chủ
quan của người lao động trong một ngành nghề nào đó đối với công việc và sản phẩm
của mình khi hành nghề. Một cách khái quát, có thể hiểu rằng tinh thần cốt lõi
của đạo đức nghề nghiệp chính là thái độ tận tâm, chuyên cần với công việc vì
chính công việc, chứ không vì những mục đích bên ngoài. Chỉ trong chừng mực
này, mới có thể hiểu được một cách sâu xa ý nghĩa của lòng yêu nghề.
Có lần một người bạn doanh nhân kể lại cho tôi câu chuyện sau. Để xây dựng
một xưởng chế tác đá quý, anh ta thuê một người thợ đá quý từ Mỹ sang. Sau khi
nhận được số bàn chuyên dụng làm bằng gỗ đã đặt đóng tại một cơ sở nghề mộc,
anh ta mời ông thợ Mỹ đến kiểm tra. Ông này xem xét mấy cái bàn một hồi, rồi bất
ngờ lôi hẳn cái ngăn kéo của một cái bàn ra ngoài, lật ngược lên để săm soi mặt
dưới của cái ngăn kéo. Tỏ vẻ khó chịu, ông nói chất lượng của cái bàn như vậy
là chưa đạt yêu cầu, vì mặt dưới của cái ngăn kéo chưa được bào cho thật nhẵn
(anh bạn của tôi hết sức ngạc nhiên vì lúc sử dụng thì có ai đụng đến mặt dưới
của cái ngăn kéo bao giờ!).
Câu chuyện trên cho thấy có lẽ khái niệm đạo đức nghề nghiệp cũng bao
hàm cả ý hướng vươn tới sự hoàn hảo. Điều này chỉ có thể xuất phát từ chính
lương tâm của người lao động mà thôi, chứ không ai cưỡng ép nổi.
Vài nhận định cuối
Trong hoàn cảnh thực tế của Việt Nam ngày nay, cần xác lập lại quan niệm
về đạo đức nghề nghiệp theo hướng đạo đức học nghĩa vụ (deontological ethics) của
Kant, nghĩa là chú trọng tới động cơ chủ quan của người lao động, tới lương tâm
của cá nhân, tới sự “tôn kính” các quy tắc của bổn phận nghề nghiệp, tận tụy với
công việc vì chính công việc, chứ không vì những mục đích ngoại tại như để được
lòng người khác, để có tiền, hay để được khen thưởng... - những điều này, nếu
có, chỉ là hệ quả của quá trình lao động, chứ không phải là mục tiêu. Có lẽ cần
hiểu câu “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” theo nghĩa đó, chứ không phải có “nghệ
tinh” là nhằm để “vinh thân” hay “phì gia”! Ý nghĩa của nhiều phong trào thi
đua trong lao động do vậy cần được xem xét lại một cách cẩn thận, vì nếu chỉ dựa
trên nguyên tắc “ngoại trị” (theo nghĩa của Kant) mà không chú ý tới động cơ và
lương tâm bên trong thì rất dễ rơi vào căn bệnh thành tích và chủ nghĩa hình thức
mang tính nông cạn và vô hồn, vô cảm.
Trong mối quan hệ giữa trật tự đạo đức và trật tự pháp lý trong lĩnh vực
nghề nghiệp, trật tự pháp lý phải có trước - nghĩa là phải điển chế hóa một
cách chặt chẽ các quy chuẩn của từng nghề nghiệp nhất định. Bởi lẽ trật tự đạo
đức chỉ có thể hình thành trên cơ sở một trật tự pháp lý lành mạnh và ổn định.
Tuy nhiên, trật tự pháp lý chỉ là một chiều kích tối thiểu; muốn xây dựng được
một nội lực mạnh (trong một công ty chẳng hạn) thì phải cổ xúy chiều kích đạo đức
nghề nghiệp. Những câu chuyện về lòng yêu nghề và ý thức đạo đức nghề nghiệp của
những người thợ thủ công Nhật Bản là những bằng chứng minh họa sinh động cho điều
này.
Hiểu theo chiều hướng ấy, chúng ta có thể đi đến câu hỏi là phải chăng
tình hình suy thoái về đạo đức nghề nghiệp khá phổ biến hiện nay thực ra bắt
nguồn sâu xa từ chính sự rạn nứt trong trật tự luật pháp của xã hội, mà vụ bác
sĩ thẩm mỹ ném xác xuống sông là một sự kiện có ý nghĩa điển hình?
No comments:
Post a Comment