13 September, 2014

NÓI VỚI BẠN TRẺ VỀ BÍCH TÍCH GIAO HÒA

THỐNG HỐI VÀ HÒA GIẢI VỚI THIÊN CHÚA NHÂN HẬU
(Suy tư về Bí tích Giao Hòa, gợi hứng từ dụ ngôn Người cha nhân hậu theo Tin mừng Luca)


“Tôi đi xưng tội”, “Thưa Cha cho con xưng tội”. Đây là câu nói chúng ta quen sử dụng khi muốn nhắc đến việc thực hành Bí tích Hòa giải.

Những ai không là người Công giáo hay là người thường xem phim hoặc đọc báo có nhiều tin tức liên quan đến tội phạm hình sự sẽ nghĩ ngay đến chuyện “tự thú” để được khoan hồng hoặc được giảm nhẹ án phạt. Bởi vậy họ dùng đến từ “đi thú tội” với Chúa, hay với linh mục.

Đối với một vài tín hữu, việc xưng tội nhiều khi được xem là dịp đi gặp gỡ và kể chuyện riêng hay các sự kiện đặc thù của mình cho cha Giải tội, hoặc đi kể tội chồng con và người hang xóm. Xưng tội bị hiểu nhầm là một cuộc gặp gỡ với cha giải tội như là việc điều trị tâm lý (vì có thể vị linh mục đó rất “giỏi” hay có hiểu biết về tâm lý học – “Cha ấy rất tâm lý!”). Có lúc việc xưng tội trở nên như là một cuộc thẩm vấn nhiều lúng túng, khi có người vào tòa giải tội và nói: “Thưa cha, con thấy mình chẳng có tội gì cả, hoặc lui tới cũng chỉ có bằng ấy tội, cha giúp con đi!”. Có người còn xem đó chỉ là một “cử chỉ tượng trưng”, một thói quen phải làm. Trong khi đó, một tâm hồn lấy lại sự bình an vì được Ơn tha thứ của Chúa Giêsu, một thao thức thay đổi cuộc sống được khơi dậy, một niềm vui trong tâm trí vì tìm ra được một hướng đi sau những lần vấp ngã, một vết thương tinh thần được chữa lành… là những nét đáng nói của Bí tích Giao hòa mà ai cũng có thể cảm nghiệm, nhưng chúng ta thường dễ quên và bị gò bó bởi việc thực hành theo luật lệ chứ không với cõi lòng.

Làm sao ta có thể nói cho người khác biết về hồng ân này, hay để hiểu Bí tích Giải tội là gì? Hãy nghe lại dụ ngôn của Chúa Giêsu trong Tin mừng Luca (x. Lc 15, 11-31): Dụ ngôn người cha nhân hậu.


I.          VIỆC PHẠM TỘI VÀ TỘI LỖI NGHIÊM TRỌNG

Đức Giê-su kể: “Một người kia có hai con trai.  Người con thứ nói với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng’. Và người cha đã chia của cải cho hai con.  Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình…

Trước tiên, lý do một người phải đi “xưng tội” là vì họ đã “phạm tội”, hay họ đã làm một điều gì đó sai trái với luật lệ hoặc quy định. Hãy biết rằng mỗi người trong chúng ta có thể vấp phạm, có thể vướng những lỗi lầm nghiêm trọng và mọi người đều là những tội nhân vì chẳng một ai hoàn hảo. Với người kitô hữu, tội lỗi là hành vi, tư tưởng, lời nói… trái ngược với những điều Thiên Chúa và Giáo Hội dạy, và là những lỗi phạm mà một người thực hiện bằng sự tự do chọn lựa, với sự hiểu biết và lòng ước muốn thực sự của chính mình.

Tội lỗi lớn nhất liên quan tới lối hành xử với Thiên Chúa. Người con hoang đàng đòi hỏi: “Thưa Cha, xin cho con phần tài sản thuộc về con”. Tuyên bố kiêu căng này cho thấy người con trai phạm tội nghịch với lòng yêu thương của cha mình. Tội lỗi là nói với Thiên Chúa, Cha chúng ta rằng: “Hãy cho tôi những gì mà tôi cần và những gì là quyền lợi của tôi!”, trong khi thực sự chúng ta không và không gì cả, từ thể xác đến tâm hồn và những gì nắm trong tay, nếu không nhờ vào chính Thiên Chúa.

Tội cũng chính là lối hành xử với mọi người theo kiểu “thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa”. Thái độ này là một hình thức biểu lộ rằng: Tôi có thể làm những điều theo ý cá nhân tôi, tôi có đủ mọi sự và có thể làm mọi điều theo tự do của tôi mà không cần có Cha hay anh em; những gì Cha muốn cho tôi, hãy để tôi quyết định và làm điều đó cho riêng mình! Tôi không cần Chúa, không cần một người nào khác! Tội trọng như thế cũng là một cú đóng sầm cánh cửa tâm hồn mình trước mặt Thiên Chúa và anh em, chia lìa tất cả mọi sự, quy mọi sự về mình và dửng dưng với cuộc sống của những người sống quanh ta.

Tội cũng chính là kiểu hành xử với chính mình theo lối “sống phóng đãng, phung phí tài sản, tiêu xài hết sạch”. Về cơ bản, đó là tất cả những suy nghĩ, lời nói, hành động và cả những thiếu sót của ta chống lại các Giới răn của Thiên Chúa, Cha chúng ta, đi ngược lại những lời khuyên bảo của Mẹ Giáo Hội qua Giáo lý về các yêu cầu và điều kiện của đời sống tốt lành theo kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Sự tự do cá nhân xem ra “thật là lý tưởng”, nhưng khi nó bị ràng buộc bởi điều xấu thì không còn là tự do nữa. Người ta sẽ bị trói chặt hơn và sẽ trở thành nô lệ cho những thói hư tật xấu của mình.

Có một điều đáng sợ hơn nữa nơi nhiều trường hợp đang sống trong vũng lầy tội lỗi: người ta hay có lời an ủi để tự dối lòng hay muốn quên đi hiện trạng của mình, rằng “Tôi không làm gì sai cả!”. Nhưng, cánh cửa đóng sầm không thể đóng mãi vì người ta sẽ chết ngạt. Lối thoát duy nhất là mở cửa ra, nhưng làm sao đây? Tình cảnh của người con hoang đàng hé lộ một hướng đi: con đường hối cải và thay đổi cuộc sống, con đường của Bí tích Giao hòa.
Chúng ta hãy tiếp tục xem xét những yếu tố của Bí tích này theo Tin mừng Luca.


II.       BÍ TÍCH GIAO HÒA

“Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy’. Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha”.
Đi theo con đường trở về của người con hoang đàng, chúng ta có thể tìm hiểu thêm năm yếu tố đặc trưng của Bí tích Hòa giải, và như mọi bí tích khác, đó là những dấu chỉ rất cụ thể, là biểu hiệu bên ngoài hàm chứa tất cả ý nghĩa bên trong. Chúng ta sẽ lần lượt khảo sát.

1.      Xét mình hay duyệt xét lương tâm
Việc duyệt xét lương tâm là một điều thường được chúng ta thực hiện. Trong thực tế, đó là những chất vấn trong thâm sâu cõi lòng trước, trong và sau khi làm một hành vi: “Tôi có thể làm điều này? Tôi đang làm điều gì đây? Tôi có thể được làm hay không? Tôi đã làm điều này, và điều kia chưa làm được. Vì sao mà tôi lại làm điều đó!”…

Bạn có thể không nhớ tất cả mọi thứ mình đã làm, bởi vì người ta không phải là một máy tính với bộn nhớ”khủng”. Chúng ta có thể xem xét những gì nhớ lại, hay từ kinh nghiệm đã trải qua. Có đôi điều cần nhớ khi xét mình là đối với người ki tô hữu, lương tâm là chốn thâm sâu của con người, nơi Thiên Chúa ngự trị và nói với họ, khuyên răn họ làm lành lánh dữ. Kế đến, vì Thiên Chúa là Đấng thấu suốt hết mọi sự, nên trước mặt Ngài, không có gì để ta phải che giấu và có thể che giấu (xem Mt 6, 1-18).

Xét mình trước khi xưng tội là “việc tự kiểm điểm”, trong sự hiện diện của Thiên Chúa, về tội lỗi đã phạm hay tái phạm, dựa vào các Điều răn của Thiên Chúagiáo huấn của Giáo Hội, hay những luật về bổn phận làm người khác (Ví dụ: Bạn là một sinh viên, học sinh, cần phải làm gì ở trường? Bạn đã lập gia đình, cần giữ bổn phận nào với người chồng hay vợ của mình trong gia đình? Bạn làm việc nơi công sở, đâu là công việc cần chu toàn vì công bằng và vì trách nhiệm với bổn phận được giao phó, ...)

Người con hoang đàng nhận ra những gì anh ta đã làm. Anh đã có lúc “hồi tâm và tự nhủ” và nhận ra sai lầm của mình. Nếu không có những giây phút suy tư và tự vấn lòng mình, chắc chắn chúng ta sẽ không biết mình đang trong tình trạng nào và cần phải làm gì. Hãy nghĩ đến chuyện duyệt xét lương tâm hằng ngày.

2.      Hối hận, ăn năn, hay cảm thấy đau buồn vì tội lỗi mình đã phạm
Người con hoang đàng đã nhận ra vực thẳm của sự đáng thương - nơi mà mình rơi xuống, nhìn thấy hậu quả đáng sợ do những sai phạm tự mình mình gây ra cho mình, và cảm nhận sự kinh khủng của tình trạng cuộc sống hiện tại. Sự hứng khởi của anh ta trong những ngày đầu “cảm thấy tự do” đã nhường chỗ cho “nỗi đau” vì đã quay lưng lại với Cha.

Chúng ta sẽ hối hận khi nhìn ra sự sai lầm của mình và hậu quả kinh khủng của nó. Tuy vậy, nhiều khi ta rất khó nhận ra là mình sẽ đau khổ, khi mà “ma xui, quỷ khiến” làm ta luôn có cảm giác hài lòng, mê say trên con đường tội hay sẵn lòng với việc đã biết là có “hậu quả”.

Với người ki tô hữu, lòng hối hận, ăn năn vì tội lỗi là một “ân sủng” mà chúng ta phải cầu xin Chúa – Cho con biết ăn năn. Cuộc sống thiếu đạo đức cũng có thể khiến cho nhiều người “quen” với tội lỗi và cảm thấy “không cần phải hối hận” hay không sợ luận phạt. Điều này cần ở việc giáo dục lương tâm để con người còn biết nhạy bén với điều thiện và kinh sợ những chuyện xấu xa, tội lỗi.

3.      Dốc lòng chừa cải hay quyết tâm nói “không” với tội
Người con hoang đàng, trong sự hối tiếc vì những gì đã làm, đã tự nhủ lòng là “sẽ trở về nhà của Cha mình”. Và đây là điều thao thức mà anh muốn nói với Cha: “Con muốn sẽ luôn luôn được ở với cha, trong nhà của cha; con không muốn đi hoang và lìa bỏ cha lần nào nữa”. Chàng trai trẻ hiểu ra rằng nếu không có Cha, mình không thể làm gì, và kết quả cuộc đời thật bi thảm.

Trong khi thực hành Bí tích Hòa giải, sau khi đã hối hận, chúng ta cũng cần đi đến thời điểm này. Mục đích là để nói với Chúa Giêsu: “ Không có Chúa, con không thể làm bất cứ điều gì, Con hứa sẽ không bao giờ phản bội một lần nữa!”.

Việc quyết tâm chừa cải là hướng đến một quyết định gì đó rất cụ thể và biết là sẽ phải làm hoặc sẽ không được làm. Tuy vậy nhiều quyết tâm luôn mãi là lời hứa suông. Ai cũng biết với chậu nước nóng ở 100 ° C, đặt tay bên trong bạn sẽ bị bỏng. Bạn sẽ làm gì tiếp theo? Bạn vẫn tiếp tục đưa tay vào đó ư? Có thể bạn là một “kẻ bất thường và vô tri”, hoặc bạn thực sự muốn làm tổn thương chính mình. Lý trí bình thường luôn đề nghị ta không nên đặt tay vào nước sôi nữa nếu đã bị đau đớn một lần! Khôn ngoan hơn là đừng tái phạm hay đừng liều lĩnh với những cơ hội xấu hay dịp tội.

Việc suy xét để tránh những cơ hội dẫn đến tội lỗi là việc làm của lý trí con người, nhưng đó cũng là một ân sủng cần thiết và phải cầu xin Chúa: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” - bị rơi vào, sa ngã hoặc bằng lòng với các dịp tội. Thật thế, các cám dỗ thường xuất hiện bằng vẻ đẹp lung linh và những lời hứa ngọt ngào. Chỉ có ai đủ tỉnh táo mới có thể nắm bắt cơ hội và lướt thắng. Chỉ có ai biết khiêm tốn mới biết nhận mình sai lầm và sửa đổi. Chỉ có ai can đảm mới đủ sức chống chọi và mới có thể thóat khỏi vòng vây của sự dữ. Muốn có những khả năng này, ta phải biết thường xuyên tập luyện các nhân đức và chuyên cần cầu nguyện.

4.      Xưng thú tội lỗi
Đứa con hoang đàng chạy đến với Cha và nói to, rõ ràng, không dấu diếm gì: “Thưa Cha, con đã phạm tội chống lại Trời cao và nghịch cùng Cha”.
Như người con hoang đàng, chúng ta cần phải thú nhận tất cả mọi tội lỗi.
Lời thú nhận tội lỗi là, trước mặt Thiên Chúa, trình bày với cha Giải tội (người đại diện Chúa Kitô theo sự ủy thác của Giáo Hội) về những gì lỗi phạm đến Chúa, đến anh em và với chính  bản thân, là những tội đã được suy xét và nhớ lại trong khi xét mình.
Điều rõ ràng, không dấu diếm tùy thuộc vào việc “gọi tội lỗi ra theo tên của nó”. Ngày nay, người ta hay có khuynh hướng “đánh tráo khái niệm”, giảm khinh và lấp liếm hậu quả sai lầm bằng những “từ ngữ nhẹ nhàng” hơn (Ví dụ, thay vì nói là “phá thai” người ta nói “làm ngắt quãng quá trình mang thai” hay “điều hòa kinh nguyệt” cho nhẹ đi. Sự thật ra, trong khi sự sống là một tiến trình liên tục, việc làm ngắt quãng quá trình sống của bào thai chính là giết chết nó vậy!). Sự chân thành và khiêm nhường là điều rất cần cho hối nhân khi xưng tội.

5.      Sám hối, đền tội để đền bù và hàn gắn lại những gì đã hư mất vì tội
Người con trai nói với Cha: “Xin hãy đối xử với con như là tôi tớ của Cha”. Nói cách khác: “Xin tha thứ cho con, con sẽ chấp nhận làm mọi sự để bảo đảm cho lời hứa, sẽ đền bù những thiệt hại mà con đã gây ra cho Cha, cho dù đó là làm công việc của một đầy tớ”. Anh xin làm một điều có lẽ sẽ không đủ lớn để bù lại khoảng trống của tình yêu thương và lòng tin tưởng trước đây của cha mình, nhưng là một điều cụ thể và chân thành.

Sám hối hay “làm việc đền tội” là làm một điều cụ thể nào đó sau khi xưng tội, do Cha giải tội yêu cầu hoặc căn dặn phải thực hiện: một lời cầu nguyện, một cử chỉ đối với một ai đó, một việc gì đó phải làm để thay đổi tính nết.

Về “chuyện đền tội” này, có điều xem ra rất “trẻ con” nhưng là sự thật: người ta thích chọn xưng tội với cha giải tội nào “ra ít việc đền tội hơn cho mình”. (Thay vì một cha bắt đi lễ sáng một tuần, cha này thì chỉ xin đọc một Kinh Lạy Cha, viếng Thánh thể một lần, vân vân…)

Người cha nhân hậu đã không làm gì khác hơn là đón nhận, mở tiệc mừng vì kẻ sám hối được hồi sinh. Anh được tha thứ và trở thành người con được yêu thương nhiều hơn, cho dù anh hầu như đã đánh mất quyền làm con và chỉ muốn làm tôi tớ phục vụ. Thiên Chúa cũng chẳng bắt chúng ta trả nợ hay phải đọc kinh bù lại để ca ngợi Ngài, vì điều đó chẳng mang thêm gì cho Chúa mà chỉ sinh ơn ích cho chúng ta mà thôi.

Một cậu bé làm vỡ chiếc bình cổ mà mẹ rất quý. Cậu biết lỗi, hối hận và cầu xin sự tha thứ từ người mẹ; và người mẹ tha thứ cho cậu, vì đó là con trai của bà và bà luôn yêu thương cậu. Sự tha thứ của người mẹ phải chăng vì cậu bé có thể lắp ráp hay hàn gắn lại chiếc bình? Cậu bé muốn lắp ráp lại bình, muốn tỏ thiện chí, thiện tâm vì cậu yêu mến mẹ và cậu thực sự không muốn làm cho mẹ buồn; còn người mẹ biết chắc chắn việc ráp lại chiếc bình đã vỡ là điều không thể hoặc không cần thiết nữa, nhưng bà nhận ra tấm lòng của cậu.

Sự sám hối và làm việc đền tội chính là biểu lộ “tấm lòng thành”, với ước ao xây dựng lại mọi sự trong trạng thái nguyên tuyền vốn có. Có thể đó là “điều không thể” với chúng ta khi muốn làm lại những gì đã đổ vỡ, nhưng Thiên Chúa biết và nhận ra tấm lòng của chúng ta. Và như thế, ơn tha thứ vẫn tuôn tràn cho mọi kẻ tội lỗi mà “có lòng thành” muốn sám hối và thú nhận lỗi lầm của mình. 
Bạn đừng quên việc năng chạy đến tòa cáo giải để nhận hồng ân tha thứ này.


III.     VÀI ĐIỀU ĐÁNG LƯU TÂM

• Hãy nhớ rằng cách duy nhất để được hòa giải với Thiên Chúa và được tha thứ tội lỗi là xưng tội bình thường với cha giải tội. Đây là một Bí tích chứ không là chuyện “làm cho xong”, là một hành vi khiêm tốn và là cách duy nhất để được tha tội qua trung gian của Giáo Hội và nhờ vị linh mục, như Chúa Giêsu nói: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (xem Ga 20, 23). Sẽ không có sự tha tội “tự mình” theo kiểu do it yourself bằng cách thú nhận riêng giữa bạn và Thiên Chúa. (Bí tích cần sự thực hành qua các dấu hiệu bên ngoài, như chúng ta nói trên đây)

• Khi bạn xưng tội, linh mục là một nhân vật quan trọng (không có linh mục thì không có sự tha thứ tội lỗi bằng lời xá giải của ngài), nhưng “con người” của linh mục chỉ là thứ yếu. Điều đó muốn nói rằng ơn sủng của Bí tích hòa giải mang lại cho bạn không hệ tại nơi “ai là người linh mục mà bạn đến xưng tội”.

• Chính Chúa Giêsu đã tha thứ cho bạn qua vị linh mục. Và chính Chúa Giêsu ban cho bạn ân sủng của Ngài qua linh mục. Chúa Giêsu lắng nghe bạn xưng tội thông qua linh mục.
• Đừng bao giờ phải xấu hổ thú nhận bất kỳ tội lỗi nào. Vị linh mục giải tội bị bắt buộc giữ bí mật! Bạn có thể thú nhận bất kỳ tội lỗi nào; và nếu bạn muốn cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa, chắc chắn Ngài sẽ không bao giờ từ chối điều đó, nhưng điều quan trọng là “có xin thì mới được”.
• Xưng tội bao nhiêu lần thì đủ? Giáo Hội mời gọi “xưng tội ít nhất mỗi năm một lần vào Mùa Phục sinh”, nhưng tốt hơn là bạn nên lưu tâm xưng tội thường xuyên (mỗi tháng, mỗi hai tuần), và nhất là hãy xưng tội ngay mỗi khi bạn đã trót phạm một tội trọng.

• Làm sao xưng tội khi mình luôn luôn phạm những tội lỗi tương tự? Tất cả chúng ta luôn luôn phạm những tội lỗi tương tự (thói hư, tật xấu), và phải luôn luôn thú nhận tội lỗi tương tự (cứ lặp đi lặp lại). Không có một luật hay văn bản nào của Giáo Hội buộc bạn phải luôn luôn xưng các tội khác nhau mỗi lần riêng biệt. Chú ý là cùng một hành vi được bạn thực hiện với chủ ý khác nhau hay trong hoàn cảnh khác nhau sẽ được đánh giá khác nhau. Bởi vậy khi xưng cùng một tội, bạn đã phải nói rõ là đã phạm bao nhiêu lần và được cha Giải tôi yêu cầu nói thêm là đã phạm tội ấy trong hoàn cảnh nào nữa để ngài có thể giúp bạn!

• Đừng rước lễ (đón nhận Mình Thánh Chúa khi tham dự Thánh lễ) nếu bạn phạm một tội trọng và bạn chưa xưng tội. Để được rước lễ, việc cầu xin Chúa tha thứ các tội trọng qua lời cầu nguyện cá nhân và ăn năn tội mà thôi thì chưa đủ.


• Giữ mình không phạm tội là một hồng ân! Hãy cầu xin Chúa Giêsu trợ giúp trước khi vận dụng khả năng hay nỗ lực của chính bạn! Điều quan trọng cho tất cả mọi cố gắng là yêu mến Chúa Giêsu. Mọi hồng ân chúng ta nhận được không phải “do chúng ta tốt lành và xứng đáng”, nhưng phải biết rằng vì nhờ Chúa Giêsu “đầy lòng thương xót” đã yêu thương bạn trước. Vì thế, hãy tìm đến Ngài để được đổi mới luôn luôn cuộc sống của chính bạn.(Lê An Phong, SDB)

HÃY ĐỐI XỬ VỚI EM NHƯ ĐANG ĐỐI XỬ VỚI CON NGƯỜI THỰC THỤ


Từ những chuyện đời
Một lần nọ, tôi được nghe những lời than vãn từ một đôi vợ chồng trẻ về chuyện họ phải hủy bỏ một chuyến nghỉ hè xa, chỉ vì cậu con trai mười hai tuổi của họ. Số là họ đã mua vé và đặt trước chổ ở cho gia đình trong đợt nghỉ hè ở một vùng biển, nhưng hôm chuẩn bị xếp vali lên đường thì họ gặp rắc rối. Cậu con nhỏ không muốn đi ra vùng biển, cậu muốn cả nhà lên nghỉ hè trên núi. Nếu cha mẹ thích đi biển, cứ việc đi, còn cậu thì muốn ở nhà vì lý do là mình không thích, và vì khi lên chương trình nghỉ hè, bố mẹ đã …không hỏi ý kiến cậu muốn đi đâu!    

Thực tế trong gia đình hiện đại còn xảy ra nhiều chuyện “nhiêu khê” hơn nữa, khi đám “con nít” bắt đầu biết “lý sự” và dùng quyền con trẻ của mình để “phủ quyết” hay “bắt nạt” người lớn. Có trường hợp cha mẹ phải ra hầu tòa chỉ vì đã dọa đánh con trẻ một roi để răn dạy. Trong nhiều trường hợp liên quan đến giáo dục học đường, mức độ gay cấn của xung đột giữa trẻ và nhà giáo dục còn đáng nói hơn. Không ít các thầy cô chỉ biết khóc thầm và “kêu Trời” vì được “yêu cầu phải tôn trọng nhân phẩm” trẻ em. Nhiều người đã sử dụng bạo lực với trẻ, và nhiều bậc phụ huynh cũng cho rằng “thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Nhiều bặc phụ huynh đã “ bó tay” khi đi tìm phương cách giáo dục trẻ.

Có một thực tế khác là trong nhiều gia đìn, bố mẹ được tiếng “nghiêm khắc”, không đánh một roi, chỉ dùng mấy lời răn bảo mà con cái cứ “đâu vào đấy”; trong khi ở những gia đình khác, nhiều đứa trẻ đã nếm mùi các trận đòn đích đáng, nhưng chứng nào vẫn tật đấy. Xét cho cùng, việc xử sự nghiêm khắc hay dễ dàng còn tùy thuộc vào cá tính của đứa trẻ, bối cảnh gia đình và môi trường giáo dục khác nữa. Việc giáo dục có mang lại kết quả hay không phụ thuộc vào sự hòa hợp những yếu tố và những đinh chế xã hội khác nhau, và nhất là sự nhạy bén của nhà giáo dục. Giáo dục chắc chắn cần đến tư duy, cần đến tấm lòng, cần đến sáng kiến, cần sự kiên nhẫn, cần lòng tin và cả sự hy vọng nơi khát vọng vươn lên của cá nhân mỗi con người.

Từ kinh nghiệm của Don Bosco và giáo dục theo kiểu saledieng
Có lẽ từ một vài lần gặp gỡ với các vị mục tử hơi nghiêm khắc hay lạnh nhạt và “không muốn chào các em nhỏ” đã khiến cho cậu bé Gioan đi đến quyết định là mình sẽ trở thành linh mục, một “kiểu” linh mục biết chào đón và bày tỏ sự thân thiện ngay cả với các bạn nhỏ. “Khi nào tôi trở thành linh mục, tôi sẽ đi tìm gặp các trẻ nhỏ, sẽ yêu mến chúng và làm sao cho các em cũng luôn yêu mến tôi” (Bài giảng 91, 68). “Nếu tôi có thể trở thành linh mục, tôi muốn dành toàn bộ cuộc sống của tôi cho các em nhỏ” (MB I, 228-350).

Don Bosco có niềm vui thật sự khi làm linh mục và là nhà giáo dục Đức tin cho bạn trẻ. Ngài viết: “Niềm vui của tôi là giảng dạy giáo lý cho các trẻ em, gần gũi và trò chuyện với chúng” (MB II, 18). Ngài tỏ ra là một người có kinh nghiệm sư phạm khi làm việc với trẻ con, và viết những lời đề nghị sau đây: “Có một điều rất quan trọng và hữu ích cho các bạn trẻ là đừng bao giờ để một đứa trẻ rời bỏ chúng ta vì bất mãn (…). Hãy luôn giữ lời hứa với trẻ em, hoặc ít nhất là khi ta đã không thể giữ lời, thì hãy giải thích cho chúng biết lý do vì sao” (MB II, 153).

“Nếu bạn muốn thành công khi giảng dạy cho trẻ em, hãy dùng các mô hình, những câu chuyện làm ví dụ và sự so sánh; nhưng điều quan trọng nhất bạn cần nhớ là câu chuyện phải được phát triển và nhấn mạnh vào các chi tiết: vào các tình huống nhỏ nhất” (MB II, 340).

Sự tôn trọng nhân vị của đứa trẻ nơi Don Bosco được củng cố hơn với cảm thức và việc nhận ra nhu cầu tự nhiên của tình yêu thương, “yêu và được yêu” nơi con người, ngay cả ở tuổi thơ ấu: “Niềm hạnh phúc đầu tiên của một đứa trẻ là biết mình được yêu thương” (MB IV, 455). Sự tôn trọng trong giáo dục bắt đầu từ việc “chiếm được lòng tin”, bởi thế, ngài nhấn mạnh điều này trong thực hành mục vụ: “Cha khuyên các linh mục rằng hãy có lòng bác ái và thật sự kiên nhẫn khi giải tội cho trẻ nhỏ, để không đánh mất sự tin tưởng của các em” (MB VII, 193).

Khác với những kiểu mẫu thực hành sư phạm khác, Don Bosco không những chỉ quan tâm, tôn trọng và dành ưu tiên cho các trẻ nhỏ, Ngài còn đặt vào đó một “cảm nghiệm thiêng liêng” về hình ảnh của Chúa Giê su nơi những người bé nhỏ khó nghèo. “Nơi con người của những đứa trẻ nghèo đói và bị bỏ rơi, có sự hiện diện của Đấng Cứu Thế. Vì vậy, chúng không đơn thuần là những đứa trẻ nghèo kêu xin sự trợ giúp của chúng ta, nhưng là chính Chúa Giêsu làm người trong thân phận những kẻ bé nhỏ nghèo hèn ấy (MB XIII, 109).

Không ít lần Don Bosco nhắc các em nhỏ lưu tâm đến nhân phẩm của mình – họ là con cái Thiên Chúa. Hơn những gì thuộc về một con người bình thường, các em còn là điểm sáng đặc biệt trong mắt Thiên Chúa. “Các bạn trẻ, chúng con chính là niềm vui của Thiên Chúa” (MB XVI, 667).
Những trích dẫn trên phần nào giúp chúng ta hiểu thêm về một kiểu thực hành giáo dục saledieng (Ái-Trí-Đạo), là khoa sư phạm của tình yêu thương kết hợp với lý trí và theo ánh sáng Đức Tin khi nhìn nhận và hoạt động với các đối tượng giáo dục của chúng ta.

Một chút suy tư và đề nghị: Giáo dục với việc tôn trọng nhân vị và phát triển nhân cách
Đối mặt với một đứa trẻ đang được giáo dục và cần được dạy dỗ, chúng ta phải tôn trọng gì nơi em? Làm cách nào để giúp em có thể biết tôn trọng chính mình và tôn trọng người khác? Những điều này vượt quá phạm vi một bài chia sẻ nhỏ, vì mang tính chuyên môn và cũng là lĩnh vực được nhiều người nghiên cứu theo hướng đưa ra “những giải pháp cụ thể” hay “ cách thức thực hành giáo dục tùy thuộc vào tâm lý trẻ em, vân vân và vân vân… Chúng ta cùng nói với nhau ở đây một suy tư để hiểu về nhân vị và để giúp rèn luyện hay giáo dục nhân cách.

Theo triết gia người Pháp Jaques Maritain, con người là một cá thể, là một ngôi vị, cùng với thân xác có sự tồn tại của tinh thần (linh hồn) và lý trí; đó là một nhân vị, với năng lực của lý trí, biết nhận ra nơi chính mình sự khác biệt so với những người khác, biết mình là một chủ thể (mang nét riêng), và cũng là thành viên của một loài (có những điểm chung). Bởi vậy, ý thức về cá nhân của tôi (cá thể giữa muôn người) và nhân cách của tôi (điểm khác biệt với mọi người) là hai khía cạnh của toàn bộ hiện hữu, tương ứng với hai cực khác nhau (hướng nội và hướng ngoại) đưa dẫn sự phát triển đời sống tinh thần (nội tâm) và cả luân lý của ta (hành vi, hoạt động).

Ta có thể phát triển bản thân mình hay giáo dục người khác theo ý thức về nhân cách, tức là trong ý thức làm chủ bản thân, nét độc đáo và tinh thần độc lập của mình mà tồn tại; hoặc ta có thể phát triển bản thân trong ý thức cá nhân, nghĩa là, trong cảm nhận về các xu hướng đang hiện diện trong ta liên quan đến tính chất thừa kế của thể chất, sinh lý và di truyền.

Trong cuộc sống, con người cũng luôn tìm thấy mình phát triển giữa hai “cái tôi” (bản ngã): một cái tôi được ban tặng hay được thừa kế từ sự tiến hóa sinh học hoặc tiến hóa của xã hội,   một cái tôi được tạo lập qua việc chấp nhận những yếu tố hay điều kiện tâm sinh lý tất định, những ảnh hưởng của hoàn cảnh, văn hóa; qua việc biết mình và ngày càng trở nên chính mình, liên tục đi từ tiềm lực đến thực tại, qua việc hiện thực hóa nhân cách của mình. Con người đúng nghĩa và đích thực được sinh ra như một cá nhân “hoàn chỉnh, đầy đủ”, nhưng sẽ chỉ trở thành một con người “hoàn thiện, trọn vẹn” khi phát triển mình như một nhân cách.

Triết gia J.Maritain giới thiệu cho chúng ta một triết lý về giáo dục, về một quá trình năng động giữa một nhân vị ý thức mình “là” và những gì mình “có”; và buộc phải sử dụng hai thuật ngữ: cá nhân, để chỉ ra điểm khởi đầu: tất cả mọi người đều là con người và có giá trị như nhau, và nhân cách, để chỉ ra những gì là điểm nhắm đến của quá trình giáo dục: vì không phải tất cả mọi người đều biết hiện thực hóa chính bản thân mình, là con người như một cá nhân nhưng chưa hẳn có một nhân cách lớn hay biết sống và trở thành một con người thật sự (xem J. Maritain, Triết lý về Giáo dục, NXB Scuola, Brescia 2001).

Thiết nghĩ suy tư trên là một gợi ý hay cho chúng ta khi đánh giá hay khi phải giáo dục và giúp đỡ trẻ em lớn khôn. Hãy tôn trọng em vì trước hết em là một nhân vị, một con người với tất cả tố chất. Hãy để ý đến những gì bản thân em “là” và những gì em “có” để giúp em nhận ra tiềm năng và giới hạn của bản thân, của chính cá nhân mình. Từ đó, hãy tiếp tục đề xuất với em một cách thức và tiến trình khả thể để em có thể phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình. Cuối cùng, để tất cả những hành động giáo dục trên đạt kết quả tốt, chúng ta luôn cần đến tấm lòng của những nhà giáo dục. (Lê An Phong, SDB)