12 February, 2015

Năm Thánh Đời sống Thánh hiến, nghĩ về Cộng đoàn của Chúa Phục sinh



Cộng đoàn của Đấng Phục sinh (Cv 2, 5-47)


Dẫn nhập
Trong tất cả các cộng đoàn mà chúng ta đang sống, những thử thách và khó khăn bên trong cũng như bên ngoài là điều dễ nhận thấy. Các cộng đoàn kitô hầu như phải đối mặt thường xuyên với nhiều vấn đề liên quan đến “con người”.
Chúng ta cũng nghe nói nhiều đến sự hiện diện của Chúa Thánh Thần và những đặc sủng, hay quà tặng của Thần khí, theo nhu cầu của cộng đoàn và tùy tình trạng tâm linh khác nhau của người tín hữu, giúp họ bền sức đấu tranh và chống lại sự dữ trong cuộc hành trình đầy gian khó để tiến về nhà Cha. Chúa Thánh Thần hiện diện trong Giáo Hội và can thiệp cách đặc biệt khi Giáo Hội phải đối mặt với thời khắc khó khăn nhất.
Ngày nay, Giáo Hội phải hoạt động trong một thời gian được “đánh dấu bởi sự nghèo đói tinh thần”: Con người có vẻ như không cần Thiên Chúa để có thể tự do hơn cho cuộc sống và hạnh phúc của họ. Những người kitô hữu trong Giáo Hội thì sao? Giáo hội, một cộng đoàn gồm các tín hữu đặt niềm tin của mình vào Đấng Phục sinh, cần sống với thái độ nào trong lời cầu nguyện và lối chứng tá nơi cuộc sống hàng ngày? Chúng ta thử ngược dòng thời gian về với cộng đoàn tiên khởi để suy nghĩ về điều này.

I.       Hoạt động của cộng đoàn tiên khởi
Theo các tường thuật Tin mừng, nhóm môn đệ đầu tiên sống trong nghi ngờ, đau buồn, thất vọng sau biến cố Thương khó (xem Mt 28, 16-20; Mc 14, 16-18; Lc 24, 36-39). Họ đã quy tụ bên nhau, “đóng kín cửa nhà vì sợ”. (xem Ga 20, 19). Việc Chúa Giêsu Phục Sinh đã khơi mào một sức sống mới. Thần khí của Đấng phục sinh đã làm tăng trưởng sức sống này, biến họ từ những kẻ nhát đảm, sợ sệt thành những người can đảm, hăng say, vui tươi, năng động. Họ đã cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm Đức tin. Đó việc thực hành với thái độ kiên trì bốn việc bổn phận, hay là việc tham gia cùng nhau các hoạt động cơ bản sau:

1.      Lắng nghe giáo huấn (bài giảng) của các tông đồ.
Điểm quan trọng đầu tiên được dành cho việc giảng dạy (Didaché) và giáo dục về Đức Tin từ các tông đồ. (Catechism- giáo lý, từ tiếng hy lạp, κατηχισμός (katechéo – kata, từ cao xuống thấp echos, tiếng vọng âm thanh của giọng nói): làm cho ngân vang một lời nói, một âm thanh, hướng dẫn bằng lời nói, lời tóm tắt hoặc giải thích một học thuyết).
Lời dạy dỗ hay việc rao giảng của các tông đồ là hoạt động nền tảng, vì các ngài chính là các nhân chứng đích thực, đã dạy dỗ bằng kinh nghiệm sống gần gũi với Chúa Giêsu, và là những người được huấn luyện trực tiếp từ Thầy Giêsu.
Sự tham gia cách siêng năng và chăm chỉ của các tín hữu trong việc lắng nghe lời giảng dạy của các tông đồ cũng đồng nghĩa với việc cam kết liên tục, nơi các cộng đoàn chúng ta hôm nay, trong việc lắng nghe và đáp lại giáo huấn của Chúa Kitô và Giáo Hội.

2.    Việc phục vụ
Ngoài việc giảng dạy, lắng nghe giáo lý giáo lý, công đoàn kitô hữu tiên khởi còn sống cách mạnh mẽ việc phục vụ và mối tương quan huynh đệ (koinonia, agape). Họ dấn thân trong việc liên kết, hợp tác, hiệp thông, nâng đỡ nhau cả tinh thần lẫn vật chất.

3. Việc Bẻ bánh – Cử hành Thánh thể
Việc bẻ bánh (klasis tou artou, fractio panis): là một thuật ngữ nói về bữa ăn tối” hay “tiệc ly”, về Thánh Thể”. Theo kiểu nói của người Do Thái, bẻ bánh mì có nghĩa là dùng bữa trưa hoặc ăn tối với nhau, vì vào bắt đầu bữa ăn, người đứng đầu của gia đình cầm lấy bánh mì, bẻ ra, đồng thời nói một lời chúc tụng. Thường đó là một công thức ngắn thế này: “Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa đã tạo dựng tất cả, chính Chúa đã ban cho chúng con bánh này làm thức ăn”. Đó là một công thức của việc chúc lành để bắt đầu các bữa ăn, nhưng nó cũng rất quan trọng trong nghi thức của ngày lễ Vượt qua. Có lẽ vì vậy các kitô hữu trong cộng đoàn tiên khởi đã tái cử hành “Bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu”. Đó là bữa ăn lễ Vượt Qua theo truyền thống, nhưng mang một ý nghĩa tưởng niệm mới của Thánh thể. Vào thời điểm khởi đầu bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho họ nói, “Đây là thân thể của Thầy”.
Việc bẻ bánh trở thành thuật ngữ của Thánh Lễ, hay việc cử hành Thánh Thể. Sự tham dự nghi lễ bẻ bánh cách thường xuyên là một cam kết lâu dài của cộng đoàn tiên khởi trong việc gặp gỡ nhau (sống với anh em) cho việc cử hành Thánh Lễ (sống với Chúa Kitô). Đó là hai điểm then chốt trong mối tương quan của đời sống kitô hữu.

4.    Việc cầu nguyện.
Các kitô hữu đầu tiên có một thái độ cầu nguyện “đặc biệt”. Đó là sự kế tục truyền thống Do Thái, và đồng thời, họ có được những bổ sung khác từ nội dung mới của Đức tin kitô giáo. Còn hơn thế nữa, họ còn có sức mạnh mới do Thần khí của Đấng Phục sinh ban cho.
Các hoạt động mà Thánh Luca - tác giả sách Tông đồ công vụ - trình bày về công đoàn kitô hữu đầu tiên cũng chính là đời sống của Giáo Hội chúng ta ngày nay. Đó những chủ đề xuất hiện trong các chương trình mục vụ, giáo lý, phụng vụ và bác ái, của giáo xứ, trong các giáo phận và trong toàn thể Giáo Hội.
Hoa trái từ những hoạt động trên là sự hiệp thông. “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ (Cv, 43-44).
Có thể nói hiệp thông chính là hệ quả của Đức tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Những người đã trở thành Kitô hữu, những người đã gắn bó với Chúa Giêsu Kitô, tập trung mọi sự vào Ngài và tin tưởng trao cho Ngài cuộc sống của họ, họ đã hợp nhất với nhau.

II.      Đặc nét của cộng đoàn kitô hữu tiên khởi
Cộng đoàn của Đức Kitô Phục sinh có ba đặc tính chính sau:

1. Cộng đoàn có Chúa Kitô làm trung tâm.
Cộng đoàn của Chúa Giêsu Phục Sinh đặt Ngài làm trung tâm của việc cầu nguyện Tạ ơn và Bẻ bánh. Chúa Giêsu chính là “Chủ sự” và là “Lễ vật” (xem Hr 10,10).
Phát xuất từ kinh nghiệm của “Nhà Tiệc Ly”, cộng đoàn các kitô hữu đầu tiên cũng nhận thức mình là Thân Thể Chúa Kitô Phục Sinh. Cộng đoàn này loan báo và làm chứng tá về sự hiện diện hữu hình của Chúa Kitô giữa dân Người. Cuộc sống mới do Chúa Giêsu Kitô mang lại không thể là cuộc sống tách biệt họ với những người khác; cuộc sống ấy phải được chia sẻ với các anh em khác trong đức tin và mở rộng cho tất cả mọi người.
Trong Giáo Hội, là cộng đoàn các tín hữu, có một cuộc gặp gỡ của Thiên Chúa với con người qua Đức Kitô. Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và là Con người thật, là Đền thờ mới, nơi gặp gỡ và hội tụ mãi mãi thiên tính và nhân tính. Chúng ta, những viên đá sống động, được dùng để xây dựng tòa nhà Giáo Hội- Thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Và nếu chúng ta không tháp nhập với Đầu của Thân thể mầu nhiệm này, chúng ta sẽ không bao giờ có được sự kết hiệp trọn vẹn với Thiên Chúa.

2. Cộng đoàn có sự hiện diện của Mẹ Maria.
Các môn đệ, sau khi chia tay với Thầy mình, đã cùng nhau “chuyên cần cầu nguyện” trong Nhà Tiệc Ly, “với Bà Maria thân mẫu Đức Giêsu” (xem Cv 1, 14). Và như thế, đối với các môn đệ trong thời sơ khai, sự hiện của Đức Maria góp phần nâng đỡ cho lời cầu nguyện của họ.
Lời cầu nguyện của Đức Maria là gì? Đó là lời ngợi khen, là những lời cầu nguyện của toàn dân tộc Israel, những người đã chờ đợi lời hứa về Đấng Thiên Sai và nhớ lại sự can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử của mình, từ những kỳ công của Tạo dựng đến những hồng ân nhận được.
Mẹ Maria đã chờ đợi Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã hứa với dân của Ngài và Mẹ tin rằng Người sẽ thực hiện lời hứa đó. Trong thực tế, Mẹ Maria đã sống với đức tin vào Đấng Cứu Thế - Đấng đã nhập thể, mang thân xác con người qua thân xác tinh tuyền của Mẹ - nhờ đặc ân của Thiên Chúa – Mẹ đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ. Mẹ cũng tràn đầy ân sủng Thiên Chúa, và Thánh Thần của Thiên Chúa ngự xuống trên Mẹ (xem Lc 1, 26-45).
Vào ngày lễ Ngũ tuần, trong lúc cầu nguyện cùng với các môn đệ của Chúa Giêsu, Thánh thần của Chúa một lần nữa đã ngự xuống trên Mẹ. Từ nơi Mẹ và từ các tông đồ, Thần Khí hoạt động một cách tự do, biểu hiện sức mạnh của Sự sống mới từ Đấng Phục sinh nơi nhiều diện mạo khác nhau của sự thánh thiện.
Thánh Thần của Thiên Chúa nơi Đức Maria còn đặt người kitô hữu trong mối tương quan sống động với “Đức Maria của vinh quang thiên quốc” - của “Người phụ nữ mặc áo mặt trời” theo lời sách Khải huyền. Mẹ sinh ra Chúa Cứu thế, Ánh sáng thế gian. Mẹ chiến thắng sự dữ. Mẹ đã được đưa lên cùng Thiên Chúa trong ánh sáng và được tặng ban vinh quang là Nữ vương thiên quốc. “Người phụ nữ mặc áo mặt trời”, trong lời cầu nguyện liên tục của cộng đoàn kitô hữu đã làm chổ dựa cho đời sống và đức tin của họ. Mẹ Maria, ngay từ buổi ban đầu, đối với các tín hữu, là Mẹ của Chúa Kitô và của Giáo Hội.

3. Cộng đoàn đón nhận nhiều Đặc Sủng Thánh Thần, có sự khác biệt nhưng sống  trong hiệp thông.
Cộng đoàn kitô hữu tiên khởi đã trở thành một khí cụ đầy sức mạnh của Chúa Kitô Phục sinh. Sức mạnh ấy trong cộng đoàn được thể hiện thông qua những “món quà đặc biệt” mà Chúa Thánh Thần ban tặng.
Được sinh động bởi Thánh thần của Đấng Phục Sinh, cộng đoàn này tỏa sáng, khiến người khác nhận ra nơi họ sự cứu rỗi hữu hình của Chúa Giêsu. Đó là một cuộc sống chung, thống nhất bởi sự ràng buộc của tình yêu và có Đức ái là mục tiêu chung; sống theo lời chỉ dạy của Phúc Âm cùng mối hiệp nhất và tương giao mật thiết giữa những người kitô hữu với nhau, cùng bước đi trên con đường hoán cải. Chúa Kitô Phục Sinh ban sự sống và kết nối tất cả mọi người: cá nhân đặt trong sự hiệp thông với người khác bởi Thánh Thần của Chúa Kitô (xem Rm 12, 4-5).
Trong cộng đoàn, với sự đa dạng và được bổ sung nhờ nhiều hồng ân của Chúa Thánh Thần, mỗi người, với công việc của mình, cống hiến “món quà của mình” (đặc ân) vì lợi ích của cả cộng đoàn.
Nhờ nhận thức sâu sắc mình là một phần của Thân Thể Đức Kitô mà cộng đoàn này đã tiếp tục chiến đấu với sự ích kỷ và chiếm hữu nơi con người xác thịt để sống với con người được đổi mới cùng Chúa Kitô Phục sinh (xem 1 Cor 12,4-30).

Để kết
Chúng ta, những Kitô hữu của ngày hôm nay, đang chứng kiến một hiện tượng trái với điều đã xảy ra tại nơi sinh của Giáo Hội sơ khai. Hai mươi thế kỷ trước đây, nhiều người Do thái và dân ngoại đã bước theo Chúa Kitô, vì các Kitô hữu đầu tiên đã làm chứng bằng cách sử dụng tất cả các tặng ân của Chúa Thánh Thần. Giờ đây Giáo Hội đang bị tổn thương vì chia rẽ, bè phái.
Ngay sau Lễ Ngũ Tuần, một nhóm người sợ hãi và thất vọng đã có được ý thức của một cộng đoàn là Giáo Hội, là nhiệm thể của Chúa Kitô (xem Cv 1, 12-14). Họ đã làm chứng với lòng can đảm và rao giảng điều đó cách nhiệt tình. Giáo Hội đã được sinh ra, và vào ngày Lễ Ngũ Tuần, đã được chính thức giới thiệu bởi Chúa Thánh Thần, để con người thuộc mọi ngôn ngữ và quốc gia nhận biết. Đó là Giáo Hội của Chúa Kitô và là ân huệ của Chúa Thánh Thần (xem Cv 2, 1-36).
Đối với các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên, Chúa Thánh Thần là phần sức mạnh, cuộc sống và đức tin của họ (xem Cv 4, 31-34). Đây là những gì mà các cộng đoàn chúng ta hôm nay cần làm để Chúa Giêsu Phục Sinh tiếp tục là sức mạnh của Cộng đoàn: việc Phúc âm hóa mới với sự tái khám phá sức mạnh của Chúa Thánh Thần nhờ vào việc sử dụng các tặng ân và đặc sủng mà Ngài ban cho mỗi người. (Lê An Phong, SDB)

No comments:

Post a Comment