12 February, 2015

Nói một chút "luân lý" về tính dục



Các NGUYÊN TẮC căn bản để biện phân TÍNH luân lý trong đời sống tính dục



Tính “toàn phần” (totality)
Cuộc sống của một con người là một tổng thể hài hòa, liên kết nhiều mặt hay thành phần khác nhau. Cuộc đời được xây dựng trên nền tảng của nhiều mối tương quan, không chỉ lệ thuộc độc nhất vào tính dục. Tính dục chỉ là một phần của cuộc sống con người.
Như là một thành phần cấu thành nhân cách, đời sống tính dục trưởng thành phải hòa điệu với các mặt khác của đời sống tâm-sinh-thể lý của con người.
Cũng cần phân biệt tính dục (sexuality) và sinh dục hay khả năng sinh sản (genitality). Khả năng về tính dục (sống với giới tính của mình) là phần không thể tách rời hay chối từ của một con người. Tuy nhiên đời sống tính dục không bị bó buộc hay lệ thuộc vào khả năng sinh sản hay những quan hệ truyền sinh. Trường hợp của những người chọn lựa sống độc thân vì một lý do nào đó, họ có thể từ chối sử dụng khả năng truyền sinh (vì lý tưởng, vì sức khỏe, tuổi tác, văn hóa…) mà không bị mất đi tính toàn vẹn của nhân cách.

Tính “chân thật” (veracity)
Tính dục là sự rộng mở của một nhân cách hướng về các đối tượng bên ngoài mình (tha nhân). Trong tất cả mọi mối tương quan, con người thể hiện chính mình thông qua các biểu hiện về tính dục: nhu cầu yêu và được yêu, được thông truyền, đối thoại, chia sẻ…Tự quy về mình hay làm giảm thiểu sự hiện diện của người khác trong các mối tương quan ấy là biểu hiện tính ích kỷ, và chắc chắn rằng đó không phải là hình thức đúng và thật của tính dục.
Trong tất cả các dạng thức biểu hiện hay đối thoại, tính chân thật là một tiêu chuẩn nền tảng và cần thiết. Người thông truyền phải biểu hiện những gì mình muốn nói, và thông điệp mà họ muốn nói (tình yêu, lòng tốt, cảm xúc, sự đồng cảm, niềm hạnh phúc…) phải chân thật, nếu không tình yêu chỉ còn là sự lừa dối, sự thỏa mãn.

Tính “trao ban” (oblative)
Một đời sống tính dục chân thật và đúng đắn sẽ không khiến người ta đi tìm thỏa mãn cho chính mình, trái lại sẽ hướng họ đến sự trao ban, dâng hiến; nghĩa là không sử dụng chính mình hay người khác như là “phương tiện”, mà biến mình thành “quà tặng” cho người khác: một sự trao ban mang nhiều ý nghĩa sâu xa bên trong hơn là những gì thuộc về thân xác để “sử dụng”.
Tính chất quý giá này của tình yêu thể hiện qua thân xác (thể lý) nhưng không bị giới hạn bởi thân xác. Đó là sự hiệp thông sâu xa cả về tâm hồn và bao gồm cả việc trân trọng chính mình hay người khác như “quà tặng quý giá” cần được gìn giữ, bảo vệ. Người ta có thể “bán rẻ” thân xác mà chẳng trao ban được điều gì. Và ngược lại, chúng ta có thể trao ban cho người khác thời gian, sức khỏe, sự hiểu biết và các tài năng của mình thông qua việc phục vụ vô vị lợi, hy sinh vì ích lợi của người khác mà không “bán rẻ” hay “đánh mất chính mình”.

Tính “phong nhiêu” (fecundity – “phong nhiêu”, “sinh sản thêm nhiều”)
Người ta vẫn hay nhầm lẫn giữa việc sinh sản nhiều (lắm con, truyền sinh – reproduction) và tính phong nhiêu hay “việc làm cho trở nên phong phú” của tình yêu. Có thể một đôi vợ chồng sinh rất nhiều con, nhưng sự phong phú trong tình yêu của họ rất ít (thiếu sự trao hiến, sự chia sẻ tâm tình, sự đồng cảm và đồng trách nhiệm, sự chung thủy, sự chân thành).
Xét về mặt sinh học, con người ta có thể được sinh ra như một loài vật, nhưng sự khác biệt rất lớn ở họ là mỗi người được sinh ra luôn gắn với một “môi trường của tình yêu”. Nếu ta được sinh ra bởi tình yêu thật, một tình yêu thật khác trong ta sẽ được tiếp tục nảy sinh, là hoa trái mới và sẽ tiếp tục sinh nhiều hoa trái khác. Nếu ta chỉ sinh ra vì một tính toán của một ai đó (có thể đúng có thể sai, lầm lẫn của cha mẹ) hay một can thiệp thô bạo nào đó (về khoa học hay thể lý, hay xã hội…), thì sự “hiếm muộn”, “khô cằn nơi trái tim” đã manh nha ngay từ đầu của một sự sống mới rồi.
Sự phong phú của đời sống tính dục khác xa với chuyện sinh sản hay “chuyện sản xuất ra những con người”. Tình yêu đích thực làm nảy sinh những mầm sống mới, những sự sống không lệ thuộc vào ý muốn hay đòi hỏi của bất cứ ai mà là kết quả của một tình yêu thật và hiệp thông tròn đầy.

Tính “trung thành” (fidelity: trung thành, trung thực, thủy chung)
Đời sống tính dục là đời sống rộng mở và trao ban của một cá nhân với cá nhân khác, là đan kết của các mối tương quan liên nhân vị. Để các mối tương quan này bền vững, cần đến sự chân thật và cũng cần đến sự trung thành.
Đói với đời sống tính dục hay tình, sự trung thành ở đây không phải chỉ đơn giản là “không phản bội” hay là giữ y nguyên như cũ chuyện đã ký kết (hôn  nhân như là “nấm mộ chôn đời đôi ta”. Đúng hơn đó là một tiến trình, một sự liên kết các nhân vị cho một kế hoạch đời sống, cùng nhau xây dựng một tương quan sinh động trong một dự án sự sống. Trong việc cùng xây dựng kế hoạch đời sống ấy, có thể có lúc này lúc khác (thăng trầm, khó khăn, hạnh phúc, đau khổ, vui mừng…), có thể có những thử thách và ngăn trở. Thực tế cho thấy là có nhiều cuộc chia tay vì người ta không còn đủ kiên nhẫn để cảm thông , để tha thứ hay để “tin nhau” sau vài biến cố đau thương, hay khi bị lừa dối. Nhưng thực tế tế ấy không đủ mạnh để ta nói rằng “chẳng cần thiết” hay “không thể nào” có sự trung thành.
Trong đời sống tính dục, khi con người đặt tính trung thành làm chất keo gắn kết tương quan, họ sẽ có đủ sức mạnh để tìm lại chính mình và người khác sau mỗi lần bỏ mất cơ hội trao ban, và họ có đủ khôn ngoan để nhận ra rằng mọi sự không chấm hết một cách đơn giản. Con người luôn đi tìm kiếm và mở rộng các mối tương giao. Sự trung thành sẽ tạo ra điểm xuất phát vững chắc từ đó người ta có thể tiếp tục xây dựng các mối tương giao hay làm mới lại các mối quan hệ nhân vị.

Tính cộng đồng (society: tính xã hội)
Mỗi nền văn hóa hay bối cảnh xã hội khác nhau sẽ có nhưng quy luật về đời sống tính dục khác nhau: cá nhân sẽ theo cách đó để thể hiện mối quan hệ, cách ăn mặc, cách tỏ bày cơ thể trước mặt mọi người. Có điều chung là luôn hiện hữu một giới hạn nào đó về việc thể hiện đời sống hay hành vi tính dục của cá nhân. Người ta nói đến “sự nết na” hay tính chất “đoan trang” hay “sự kín đáo”. Các điều ấy không chỉ đơn thuần là kiểu nói bị gán cho những ai được coi là “quá đạo đức” hay các nhà luân lý. Đúng ra, đó là nhân đức: là sự quân bình trong cách thể hiện giới tính hay biểu hiện tính dục, giữa những gì là “của riêng mình” (privacy) và môi trường chung hay đời sống cộng đồng (in public).
*Chuyện khiêu dâm: một hình thức của “ngoại tình tập thể”, của chủ nghĩa tiêu thụ tình dục, theo đó, cơ thể con người được giới thiệu như một món hàng để ngắm nhìn và lựa chọn. Thật ra, vẻ đẹp của cơ thể theo cái nhìn mỹ học là một tác phẩm nghệ thuật đáng ngắm nhìn và tạo cảm hứng sáng tạo (nghệ thuật tạc tượng, thời trang - mode) cũng như mang lại sức vươn tới vẻ đẹp hoàn hảo hơn trong Đấng là Chân-Thiện-Mỹ. Khi vẻ đẹp cơ thể bị sử dụng để khơi gợi sự ham muốn và để thỏa mãn đam mê nhục dục, nó mất đi tính chất nguyên tuyền và vẻ đẹp thật mà Đấng Tạo hóa phú ban cho con người.

Tính khiết tịnh (chastity: thanh khiết)
Đây là tính chất bị hiểu lầm khi trình bày như một nhân đức luân lý tính dục, bị xem như là chuyện “diệt dục” hay ý muốn “triệt tiêu đời sống tính dục” nơi con người. Có một sự khác biệt cần nói đến ở đây.
Theo truyền thống thần học luân lý kito giáo ( xem Thánh Toma - S. Th., II-II, q. 151), Đức khiết tịnh được nhắc đến trong mối quan hệ với tính thanh sạch. Đức khiết tịnh có liên quan đến việc sử dụng hay thỏa mãn các cơ phận sinh dục, còn lòng thanh sạch liên quan đến việc sử dụng các giác quan (nghe, nhìn, tiếp chạm…). Cả hai nhân đức được đạt trong sự tiết độ, liên quan đến khả năng self control, làm chủ bản thân mình trước những thúc đẩy của bản năng tình dục. Cả hai nhân đức cũng liên quan đến Đức Ái: liên quan đến tình yêu Thiên Chúa và tình yêu thương anh chị em. Đức Ái không phải là sự coi thường hay xóa bỏ đời sống tính dục nơi con người. Đó là sự giải phóng khả năng yêu thương nơi con người bằng cách đặt vào đúng chổ “kênh năng lượng”mà mỗi người có trong bản thân mình, cân bằng giữa những khía cạnh của đời sống tính dục: thay vì chiếm đoạt thì biết trao ban, thay vì “sống xả láng” theo bản năng thì biết tự chủ (dùng lý trí và ý chí), thay vì chỉ muốn giành mọi sự cho riêng mình thì biết rộng mở và tôn trọng phẩm giá người khác…
Nếu chúng ta nói rằng Đức khiết tịnh liên quan đến khả năng tự chủ và kiềm chế bản năng, thì nó sẽ không dành riêng cho một ai cả (“người tu trì”, người độc thân, bà góa, bạn trẻ đang yêu và đính hôn). Mỗi người trong điều kiện tâm sinh thể lý của mình đều phải có một dạng thức riêng (trong bậc sống hay ơn gọi) để thể hiện khả năng này. Cũng như các nhân đức khác, khiết tịnh cần nơi mỗi cá nhân việc luyện tập theo cách thức năng động, sáng tạo và có trách nhiệm theo lương tâm mỗi người. Nhân đức khiết tịnh không thể được sở hữu một lần là trọn đời mà luôn cần được hoàn thiện. Đó là việc thực hành từng bước khả năng “tiết dục” – tiết chế dục vọng, ham muốn.
Trái ngược với đức thanh khiết là tính đam mê dâm dục. Đam mê không là điều xấu, chỉ trở nên xấu khi bị điều kiện hóa bởi cái xấu khiến người ta không còn tự do vươn lên và phá hại sự hài hòa trong tương quan của mình với người khác. Theo nghĩa này, đam mê chuyện tình dục chính là để cho khả năng tính dục của mình đi theo một hướng xấu, không có mục tiêu lành mạnh, khiến mình bị nô lệ cho đam mê tình dục và tâm trí luôn bị chi phối bởi điều đó (có lẽ đó cũng là một dạng lệch lạc tâm lý – tâm bệnh)
Nên nhớ rằng, in medio stat virtus – nhân đức là sự trung dung. Sợ hãi và phủ nhận tính dục hay chỉ biết sống chết vì tình dục là điều lệch lạc. Con người không là thánh hay thiên thần, họ là một thể thống nhất, tinh thần và thể xác hòa quyện. Phủ nhận thể xác với những đặc tính của nó hay phủ nhận linh hồn với tính chất siêu việt và khả năng hoàn thiện hóa nơi con người là phạm một sai lầm lớn.
Sống với tất cả những gì là của chính bản thân mình, biết tự chủ, tự trọng, nhận thức về phẩm giá làm người và trân trọng nó là điều cần thiết phải làm (giáo dục). Mens sana in corpore sano - một tinh thần minh mẫn trong một thể xác khỏe mạnh chính là món quà mà Thiên Chúa ban cho ta. Hãy trân trọng món quà ấy nơi bạn. 

 
(Barnaba Lê An Phong, SDB - Xuân Hiệp 12-2014).
*Sách tham khảo: Salvino Leone, Etica della vita affettiva, EDB, Bologna 2006.

No comments:

Post a Comment