Kính chuyển đến mọi người thân quen, bè bạn... Bài suy niệm Lời Chúa như Một món quà tinh thần nho nhỏ của Cha Gioan Ty, SDB nhân ngày lễ đầu năm mới.
Nhập đề:
‘Tết’ là do chữ
‘Tiết’ (節) mà thành. ‘Tiết’ có thể được hiểu như khí trời, như
sự chuyển vận của trời đất vũ trụ: thời tiết. ‘Nguyên Đán’ có gốc chữ Hán (元旦), ‘nguyên’ có nghĩa là ‘khởi đầu’ hay sơ khai, và
‘đán’ có nghĩa là buổi sáng sớm. Mọi người Á Đông nói chung, và người Việt
chúng ta nói riêng, đều mong muốn những ngày đầu năm mới phải làm một cuộc trở
về với những nguyên lý căn bản nhất của trời đất vạn vật thuở ban đầu. Mà
nguyên lý nền tảng và căn bản nhất của càn khôn được xác định là sự hòa hợp tuyệt
diệu (harmony) giữa các nhân tố chủ chốt: con người với Thiên, với Địa và với
Nhân. Ca dao Việt Nam đã cụ thể hóa mối tương quan này cách rất mộc mạc nhưng
sâu sắc:
Mồng một tết Cha
Mồng hai tết Mẹ
Mồng ba tết Thầy
Cha là tượng trưng cho Trời-Thiên. Ki-tô hữu chúng ta quá quen thuộc
với hình ảnh Thiên Chúa là Cha. Mẹ tượng trưng cho Đất-Địa (đất mẹ) nuôi dưỡng.
Thầy tượng trưng cho mọi mối tương quan xã hội ràng buộc giữa người với người-Nhân (nhất tự vi sư). Ba ngày đầu năm chính là dịp quan trọng để mỗi người
và toàn xã hội tái lập lại các mối giao hòa nguyên thủy. Tết Nguyên Đán chính
là những ngày của Thiên Địa Nhân giao hòa.
Mồng một Tân Niên – TẠ ƠN CHÚA VÀ CẦU XIN BÌNH AN CHO
NĂM MỚI
Suy
niệm Tin Mừng Mt 6,25-34
Hòa hợp với
Thiên Chúa
(Thiên-Nhân giao
hòa)
Đọc đoạn Tin Mừng
vẫn thường được chúng ta gán cho cái tiêu đề‘Tin
tưởng vào Chúa Quan Phòng’ trong bầu khí linh thiêng của ngày tân niên, người
Công Giáo Việt Nam sẽ nhận ra ngay: Đức Giê-su rõ ràng đang nhắc nhở tới việc
tái lập trở lại sự hòa hợp nguyên thủy giữa con người với Thiên Chúa, sự hòa hợp
tuyệt diệu mà sách Sáng Thế chương 3 cho thấy đã từ lâu bị tội lỗi phá hủy tận
căn.
Sự
hòa hợp hình như vẫn tồn tại trong trời đất, vẫn là một qui luật mà vạn vật
luôn tuân theo. Chim đồng cỏ nội vẫn sống theo qui luật đó tự ngàn đời. Ngày
nay người ta gọi đó là định luật thiên nhiên hay cân bằng sinh thái. Đức Giê-su
chỉ cho thấy cội nguồn của tình trạng hòa hợp này chính là Cha trên trời. “Cha anh em vẫn nuôi chim trời không gieo
không gặt… mặc cho hoa huệ ngoài đồng không dệt tơ kéo sợi”. Điều này chứng
tỏ sự bon chen lo lắng của nhân tình thế thái chính là biểu hiện sự mất hòa hợp
sâu sắc giữa Nhân với Thiên. Lúc khởi đầu sự hòa hợp này thật
kỳ diệu, “Thiên Chúa sáng tạo con người
theo hinh ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa”
(St 1,27). Đó là tình trạng lý tưởng của lúc khởi nguyên nơi vườn địa đàng, ‘Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào
vườn Ê-đen… và chúc lành cho họ’ (St 2,15). Tội nguyên tổ và tội lỗi con
người đã không ngừng hủy hoại sự hòa hợp, không chỉ với Thiên, mà cả với Địa và
với Nhân. Như thế tin tưởng vào Chúa quan phòng, hay tiếp nhận ơn cứu độ, hay
xây dựng niềm tin Ki-tô hữu sẽ được hiểu như trở về với sự hòa hợp nguyên thủy.
“Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì
uống gì, hay mặc gì đây? Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những
thứ đó”.
Hiểu như thế ta
sẽ nhận ra Tin Mừng hàm chứa một nội dung thật sâu sắc: nhờ vào tình thương cứu
độ của Đức Giê-su mà sự giao hòa (tức là tái lập sự hòa hợp hoàn hảo) giữa
Thiên và Nhân được tái lập trở lại. Đức Giê-su chính là A-dam mới khai sinh một
Nhân mới hoàn toàn hòa hợp với Thiên. Sự hòa hợp lần này không dựa trên
bản chất hoàn hảo của nhân, nhưng
trên tình yêu nhân ái cứu độ của Thiên. Phao-lô
đề cập tới điều này trong ngôn ngữ và văn hóa Thánh Kinh như sau: “Nhờ đức tin chúng ta được bình an với Thiên
Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta… mở lối chi chúng ta vào hưởng ân sủng
của Thiên Chúa” (Rm 5,1-2).
Ngày đầu năm,
người Công Giáo Việt Nam không chỉ cầu phúc xin Chúa chúc phúc lành cho năm mới
được an lành, không chỉ phó thác tin tưởng nơi Chúa quan phòng để cuộc sống
mình được bảo đảm hơn; nhưng điều mà họ thực sự mong muốn là làm sao mối tương
quan Thiên – Nhân được hòa hợp hơn nữa.
Nói cách khác điều họ ước nguyện và quyết tâm thực hiện trong năm mới là xây dựng
cho được mối tương quan hai chiều, và ra sức củng cố cho nó ngày càng thêm bền
vững. Chúa Trời quan tâm và thuận với nhân
hơn, trong khi chính con người cũng ra sức quan tâm và thuận với Thiên hơn. Điều này được người Do Thái Cựu
Ước diễn tả như thiết lập hay tái lập một giao ước hoàn hảo và bền chặt hơn với
Đức Chúa Gia-vê, còn người Công Giáo Việt Nam chúng ta, trong văn hóa Thiên Địa Nhân, sẽ hướng hồn về một mối
tương quan hòa hợp hơn nữa (in harmony evermore) với Thiên Chúa là Cha. Chúng
ta muốn có Thiên thời trong bất kỳ
tình huống nào, cho dầu là thuận lợi hay trái nghịch, trong năm mới cũng như
trong suốt cuộc sống chúng ta.
Lạy Chúa là Cha chúng con, Đức Giê-su làm người đã
muốn luôn được thuận với Cha trong mọi sự và trong suốt cuộc đời. Ngay từ ngày
đầu của năm mới này, con muốn và quyết tâm đi vào mối tương quan Thiên-nhân hòa
hợp với Cha. Về phần Cha thì đã quá rõ, qua thập giá Đức Ki-tô, con được bảo đảm
rằng mối tương quan Cha dành cho con sẽ luôn là giao hòa bất chấp sự yếu hèn của
con. Về phần con, con quyết tâm xây dựng và củng cố sự hòa hợp với Cha nhân ái,
cũng chính nhờ thập giá Đức Ki-tô, bất chấp những giới hạn và tội lỗi của mình.
Xin giúp con trong năm mới này biết gia tăng sự hòa hợp với Cha qua đón nhận và
đi sâu vào lòng từ ái xót thương của Cha ngày càng sâu sắc và trọn vẹn hơn.
Amen
Mồng hai - Kính Nhớ Tổ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ
Suy
niệm Tin Mừng Mt 15,1-6
Hòa hợp với mọi
người
(Nhân-Nhân giao
hòa)
Ngày
Mồng Hai Tết được Lịch Công Giáo Việt Nam gọi là ngày ‘Kính Nhớ Tổ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ’. Nhiều người muốn biến ngày này
thành ngày cầu nguyện cho vong hồn tổ tiên ông bà cha mẹ, có lẽ xuất phát từ việc
hiểu lầm chữ ‘kính nhớ’. Theo quan niệm
Nhân Hòa trong văn hóa Việt, ‘nhân’ đây gồm cả người sống lẫn kẻ chết,
người thân cận cũng như kẻ xa lạ, và kính nhớ hay tôn kính được hiểu như kiến tạo
một tương quan hòa hợp với hết mọi người, bắt đầu từ cận nhân, điển hình là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, còn sống hay đã
khuất núi. Đây là nền tảng của ‘đạo hiếu’,
không chỉ được hiểu hạn hẹp như thảo hiếu đối với ông bà cha mẹ (nhất là khi đã
qua đời) mà thôi, nhưng còn là hiếu với đồng bào, với dân với nước, và xa hơn nữa
là hiếu hay thuận thảo với toàn thể bàn dân thiên hạ (nhân hòa).
Văn
hóa Do Thái còn khá xa vời với khái niệm ‘nhân
hiếu’ này. Trong cuộc tranh luận về truyền thống với nhóm Pha-ri-sêu và các
kinh sư, Đức Giê-su chỉ mới đề cập tới và chỉnh sửa một phần nhỏ cái mối tương
quan xã hội đa diện vốn có nơi các thính giả Do Thái. Giới luật Cựu Ước chỉ qui
định “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ’, hiểu
là khi các ngài còn sống chứ không đề cập chi tới khi các ngài đã khuất bóng. Ấy
thế mà các kinh sự luật sĩ vẫn viện những lý lẽ này nọ để lướt qua: “Ai nói với cha mẹ rằng: những gì con có để
giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha
kính mẹ nữa”. Rõ ràng cái tối thiểu của chữ hiếu chữ nhân họ còn chưa có nữa
là. Chả trách sự hiểu biết ‘nhân hiếu’ của họ thật quá hạn hẹp. Nếu họ có mở rộng
nó ra hơn một chút nữa thì cùng lắm cũng chỉ tới bạn bè thân quen, “… yêu thương những kẻ yêu thương mình”
(Mt 5,46).
Trong
cái văn hóa nhân hòa, hồn Việt có khả
năng hiểu sâu hơn các điều mà Đức Giê-su trong chương 05 Phúc Âm Mát-thêu gọi
là ‘kiện toàn Luật Mô-sê’, như đừng
giận ghét, chớ ngoại tình, đừng thề thốt, chớ trả thù và nhất là yêu thương kẻ
thù. Thiết tưởng bác ái của Tin Mừng, nếu phải diễn tả trong văn hóa thuần Việt,
sẽ là đưa nhân hòa lên tới tột đỉnh
và mở rộng nó ra, thoát khỏi mọi biên cương giới hạn của lòng dạ con người. Tin
Mừng đồng thời cũng cống hiến cho Hồn Việt phương thế để thực hiện được cái lý
tưởng nhân hòa đầy thử thách và cam
go, thay vì chỉ mãi mãi là một mơ ước thanh tao cao đẹp trong những ngày đầu
năm mới. Cái ‘hòa’ mà Tin Mừng cống
hiến không phải là vắng bóng các đố kị căng thẳng, tranh chấp chia rẽ, nhưng
đúng là giao hòa dựa trên ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giê-su Ki-tô thập giá
chính là ‘Nhân Hòa’ đầu tiên của toàn
lịch sử nhân loại khi Người không những giao hòa Trời với Đất mà còn giữa người
với người. “Lạy Cha, xin tha cho họ!”
(Lc 35,34). Thánh Phao-lô đã triển khai tư tưởng hòa giải này trong chương 05
thư thứ hai gửi giáo đoàn Cô-rin-tô, trong khi Thánh Gio-an đã dùng nó làm nền
cho lời kêu gọi xây dựng nhân hòa giữa
các tín hữu và với hết mọi người, “Nếu ai
nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối…”
(1 Ga 4,20…)
Như
vậy, nếu trong ngày mồng hai tết người Công Giáo Việt Nam có cử hành bất cứ
nghi lễ hay tập tục nào để kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ mình (còn sống hay
đã qua đời) thì cái tâm của họ phải rộng mở hướng về mọi người. Chính sự rộng mở
này sẽ giúp họ trong năm mới càng chấp nhận và triển khai Tin Mừng bác ái yêu
thương của Đức Ki-tô cách sâu sắc và triệt để hơn. Họ thâm tín rằng: nhờ niềm
tin vào ơn cứu độ giao hòa của Đức Ki-tô, chính họ sẽ trở thành tác nhân có khả
năng biến niềm mơ ước mãnh liệt nhất của dân Việt, và của toàn nhân loại, thành
hiện thực: ‘Tứ hải giai huynh đệ”.
Lạy Đức Ki-tô - đấng giao hòa, trên thập giá
Chúa không chỉ giao hòa nhân loại với Thiên Chúa (Thiên – Nhân) và còn giao hòa
nhân loại với nhau (Nhân – Nhân). Trong ngày đầu xuân này, xin giúp con khởi động
trở lại tiến trình giao hòa với mọi người, bắt đầu từ những người thân cận nhất
là Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ của con, còn sống hoặc đã qua đời. Xin cho việc kính
nhớ các ngài càng thôi thúc con sống Tin Mừng cứu độ của Chúa cách trọn vẹn và
quảng đại hơn trong tương quan hòa hợp với hết mọi người trong suốt năm Giáp Ngọ
này. A-men
Mồng ba - Thánh Hóa Công Ăn Việc Làm
Suy
niệm Tin Mừng Mt 25,14-30
Hòa hợp với
thiên nhiên
(Nhân-địa giao
hòa)
Sách
Sáng Thế mô tả thời khai nguyên hoàng kim như một không gian - thời gian, khi
mà con người và thiên nhiên hòa hợp với nhau cách hoàn hảo: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào
vườn E-đen, để cày cấy và vun trồng đất đai hoa màu…” (St 2,15). Khát vọng
này vẫn là ước mơ của con người trải qua các thời đại, vì cái thực tế phũ phàng
là sự hòa hợp nhân-địa này đã bị phá
hủy, “…đất đai bị nguyền rủa vì ngươi,
ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi mới kiếm được miếng ăn từ đất
mà ra” (St 3,17). Trong những ngày đầu năm mới Hồn Việt càng cảm thấy khát
vọng tái lập ‘địa lợi’ trỗi dậy càng
mạnh liệt hơn bao giờ hết.
Đối
với người Việt, được gần gũi với thiên nhiên là điều họ hằng khao khát: họ đi
hái lộc xuân, trưng bày cây trái bông kiểng trong nhà, và thắp nhang khấn vái để
được mưa thuận gió hòa, nhất là vào thời kì còn sống trong một xã hội đậm nét
nông nghiệp. Người Công Giáo Việt tạm gọi ngày mồng ba tết là ‘Thánh hóa công việc làm ăn’ hay dâng các
công ăn việc làm của mình cho Thiên Chúa. Đoạn Tin Mừng Mát-thêu được trích dẫn
ở đây thì cho ý tưởng là làm sinh lời các yến bạc mỗi người nhận được thông qua
chu toàn các chức phận được trao (25,14-30). Dù thế nào đi nữa thì ước vọng phổ
quát vẫn là, làm sao cho Nhân và Địa được
hòa hợp hơn. ‘Địa’ ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, là tất cả những gì liên
quan tới việc sinh sống của con người.
Trong
môi trường khắc khổ của dân Do Thái thời cổ đại, tương quan nhân-địa hình như đã không được lưu tâm
tới mấy. Một vài nét đơn sơ được phác họa trong Cựu Ước như ‘đất hứa’ phải là
nơi ‘chảy sữa và mật’, và có ‘đất đai mầu mỡ và mưa thuận gió hòa’ là
mơ ước mọi người đều muốn, và chỉ nhận được nhờ phép lành Đức Chúa ban cho
thông qua lời chúc phúc của các bậc tổ phụ (xem St 27, 27-29). Tân Ước hình như
lại càng ít quan tâm tới diện này hơn vì ưu tư chính được dành cho chiều kích nội
tâm.
Đối
với người Á Đông nói chung và người Việt cách riêng, vấn đề sống hòa hợp với
thiên nhiên luôn là một mảng đề tài khá đặc sắc. Phong thủy là mối quan tâm phổ
biến nơi rất nhiều người. Ngày nay con người thời đại nói chung trước vấn đề ô
nhiễm trầm trọng đã bắt đầu qua tâm hơn tới việc sống hòa hợp với thiên nhiên
dưới khẩu hiệu ‘bảo vệ môi trường sinh
thái’. Gần đây hơn, trong giới Công Giáo và Tin Lành đã thấy xuất hiện thao
thức đi tìm một linh đạo mới cho phù hợp với khuynh hướng chung này. Trong hội
nghị quốc tế tháng 11 năm 2012 được tổ chức tại Va-ti-can để bàn về đề tài
Apostolatus Maris người ta đã đề cập tới một nét linh đạo mới dành cho mục vụ
giữa các thủy thủ hay ngư dân viễn dương. Có nên chăng hội nhập tư tưởng của
Lão Giáo qua dạng Thần Nam Hải coi biển cả như người mẹ hiền (thần nữ) dưỡng
nuôi con người bằng các sản phẩm đại dương phong phú mà ta phải đón nhận với
lòng tri ân thành kính …, thay vì chỉ nhìn đại dương cách phổ thông như chốn hiểm
nguy đầy sóng gió, thủy quái… cầu mong sao sớm được thoát khỏi để về tới bến an
toàn; hay thực dụng hơn, công tác bảo vệ sinh thái đại dương chỉ nhằm bảo đảm
khai thác hải sản lâu dài và hữu hiệu hơn?
Trong
triền tư tưởng trên, việc soạn ra một Thánh Lễ với bài Tin Mừng thích hợp cho
ngày mồng ba tết luôn là một thách đố, thay vì chỉ đơn thuần cử hành Thánh Lễ
ngoại lịch sẵn có về thánh hóa công việc làm ăn (hay như Lịch Công Giáo đề nghị
sử dụng đoạn Tin Mừng Mác-cô 7,1-13 có cùng một nội dung tương tự như Mt
6,25-34 dùng trong ngày mồng một tết). Dẫu thế nào đi nữa thì khái niệm nhân-địa giao hòa này vẫn mang một nội
dung rất phong phú. Nó có thể giúp cho người Công Giáo Việt Nam chúng ta có cái
nhìn toàn diện và lạc quan hơn về Tin Mừng cứu rỗi, như Phao-lô khi đề cập tới
‘trời mới đất mới’ hay “muôn loài thụ tạo lâm vào cảnh hư ảo… những
ngong ngóng đợi chờ… và cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở…chờ đợi ngày
Thiên Chúa mạc khải vinh quang” (Rm 8, 18-23). Thánh Lễ mồng ba Tết Nguyên
Đán phải phác ra một linh đạo sống cho cả năm chứ không chỉ đơn thuần xin Chúa
phúc phúc cho công việc làm ăn trong năm mới được thành đạt.
Lạy Cha là Chúa tể trời đất, khi giao hòa với
con người, Cha cũng muốn cho con người giao hòa với nhau và hòa hơp hơn với
thiên nhiên. Trong việc đón nhận hồng ân cứu độ của Cha thông qua thập giá Đức
Ki-tô, con được bảo đảm một ‘Thiên thời, Địa lợi và Nhân hòa’ mới, không chỉ
trong năm mới này, mà còn suốt cả đời Ki-tô hữu, bất chấp các yếu hèn và phản
nghịch của con đối với Cha, những bất trắc của thiên nhiên hay lòng dạ đảo điên
của con người. Xin cho con sống những ngày đầu năm này trong niềm tin tuyệt đối
vào tình yêu cứu độ vô bờ bến của Cha. Amen
(Cha Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)